Page 30 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 30
triển rầm rộ. Tại Sơn Dương, cơ sở cách mạng phát triển sang phía tây. Cùng
thời điểm đó, đội công tác của Xứ ủy Bắc Kỳ đã hoàn thành nhiệm vụ đánh
thông con đường từ miền xuôi qua Vĩnh Yên lên Tuyên Quang. Một địa bàn
rộng lớn từ Sơn Nam, Thiện Kế đến Khoan lư, Bằng Man, Hữu vu... đã trở
thành căn cứ của lực lượng cứu quốc quân. Các cơ sở quần chúng cũ ở soi Sính,
soi Hồng Lương, đội thuyền sắt trên sông Lô, bắt đầu hoạt động trở lại.
Đồng thời với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào Việt Minh ở phía
đông Tuyên Quang, từ Cao Bằng, Bắc Cạn, ngọn lửa cách mạng đã lan tới các
huyện: Hàm Yên, Chiêm Hóa, Na Hang, các xã nằm ở hữu ngạn sông Lô, sông
Gâm thuộc huyện Yên Sơn. Quá trình xây dựng phong trào Việt Minh ở vùng
núi phía Bắc Tuyên Quang gắn liền với nhiệm vụ đánh thông con đường từ
Tuyên Quang, qua Yên Bái tới Hòa Bình của Ban Nam tiến chỉ huy cục, do các
đồng chí: Lê Thùy (tức Thiết Lượng) và Hùng Sơn (tức Trọng) chịu trách
nhiệm. Vào cuối năm 1943, hai đồng chí xây dựng co sở trong đồng bào Dao ở
xã Tri Phương (huyện Chiêm Hóa). Vượt qua sự kiểm soát gắt gao của địch, cơ
sở cách mạng Tri Phương đã được giữ vững. Từ đây, đường dây liên lạc của
cách mạng đã phát triển qua Cổng Bình, Đá Lem, Lũng Quần, Pác Hóp. Các
đồng chí cán bộ đã sự dụng những hình thức tuyên truyền phù hợp với tâm lý
của đồng bào như dựa vào quan hệ họ hàng, láng giềng, tuổi tác, phong tục tập
quán... Các đồng chí đã mang theo báo chí, truyền đơn để phổ biến đường lối
của Mặt trận Việt Minh như báo Giải phóng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập đồng
minh...Cuốn Việt Minh tự kinh do đồng chí Võ Nguyên Giáp soạn bằng tiếng
Dao được coi là tài liệu cẩm nang để mở các lớp huấn luyện chương trình Việt
Minh ngắn hạn. Đội “Nam Tiến” đã kết hợp giữa tuyên truyền cách mạng, gây
dựng cơ sở với luyện tập quân sự, thành lập tự vệ võ trang, vận động quần
chúng đấu tranh để tập dượt cho phong trào. Trong thời gian này, để chuẩn bị
cho khởi nghĩa giành chính quyền, vấn đề sắm sửa vũ khí được chú trọng.
Sau khi nghiên cứu kỹ địa hình và tình hình phát triển của phong trào ở
địa phương, các đồng chí lãnh đạo đội công tác lấy dãy núi Ba Xứ làm xương
sống cho con đường tiến quân, chon Cánh Vần làm trung tâm để chỉ đạo phong
trào.
Tháng 1- 1944, đội Nam Tiến gặp đội Cứu quốc quân (do đồng chí Ba
Thiều và Hoàng Xuân phụ trách) tại chân dãy núi Ba Xứ và thống nhất kế hoạch
hành động. Mục tiêu đặt ra là nhanh chóng nối liền các vùng căn cứ ở Tuyên
Quang với nhau, phát triển phong trào sang phía tây, lấy dãy núi Là làm con
đường tiến sang Yên Bái, Nghĩa Lộ. Để hoàn thành nhiệm vụ to lớn, cấp bách
đó, các đồng chí lãnh đạo Ban Nam Tiến, chỉ huy cục và chỉ huy Trung đội Cứu
quốc quân III đã tăng cường cán bộ cho mũi tiến quân của đồng chí Lê Thùy. Từ
cánh Vần, cơ sở quần chúng được mở rộng tới Kim Sơn, Thắng lợi (Chiêm
Hóa), Việt Minh, Cô Ba, Bình Xa, Pom Chạng, Phong Lưu, Đèo Ảng, Khuổi
Nhầu, Khuổi Luyện, Phù Loan (Hàm Yên), Thượng Nông, Thượng Giáp,
30