Page 29 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 29

thành lập đầu năm 1942 ở Khuôn Kẹn (Khuổi Kịch – Sơn Dương ), đến đầu năm
                     1943, các đội tự vệ vũ trang đã ra đời ở hầu hết các địa bàn trong khu căn cứ.
                     Tuy chỉ ít người và vũ khí thô sơ nhưng các đội vũ trang đã có tác dụng rất lớn
                     trong việc bảo vệ cơ sở cách mạng, bảo vệ cán bộ, giữ vững giao thông liên lạc,
                     hỗ trợ và thúc đẩy phong trào đấu tranh của quần chúng. Ở nhiều xã, tuyệt đại
                     bộ phận bà con đều tham gia các tổ chức cứu quốc như xã Trung Sơn, Trung
                     Minh, Hùng Lợi (Yên Sơn), Bình Dân, Lũng Tẩu, Ngòi Nho, Ao Búc, Khuôn
                     Đào (thuộc Sơn Dương). Tại nhiều xã đó, Ban Việt Minh được thành lập, giải
                     quyết mọi vấn . Chính quyền của địch hoàn toàn rệu rã và hoang mang, dao
                     động.

                            Tháng 5-1943, Cứu quốc quân đã bắt liên lạc với Xứ ủy, đồng thời đường
                     dây liên lạc với Trung ương ở miền xuôi cũng được nối liền. Từ đây phong trào
                     lan rộng nhanh chóng, Mặt trận Việt Minh thu hút mọi tầng lớp quần chúng. Với
                     chính sách đoàn kết các dân tộc của Đảng, phong trào không chỉ bó hẹp trong
                     đồng bào Dao mà còn được xây dựng, phát triển tới đồng bào Kinh, Tày và bà
                     con các dân tộc thiểu số khác... Thêm nhiều xã có Ban Việt Minh, bọn chánh
                     tổng, lý trưởng tuy vẫn nằm trong bộ máy thống trị nhưng phải chịu phục tùng
                     chính sách của Việt Minh.
                            Cuối  năm  1943,  hai  cánh  quân  Nam  tiến  và  Bắc  tiến  gặp  nhau  tại  xã
                     Nghĩa Tá (huyện chợ Đồn, tỉnh Bắc Cạn). Đây là dấu mốc quan trọng trong quá
                     trình hình thành căn cứ địa Việt Bắc, tạo những nhân tố thuận lợi cho sự ra đời
                     của Khu giải phóng sau này.

                            Tháng 11-1943, lãnh đạo Cứu quốc quân quyết định chọn vùng núi Hồng
                     (Sơn Dương) làm địa bàn xây dựng căn cứ, lấy đây làm bàn đạp để phát triển cơ
                     sở ra xung quanh. Thực hiện chủ trương này, hàng loạt các cơ sở cách mạng
                     được xây dựng ở các xã: Hợp Thành, Trung Yên, Bình Yên, thôn Kháng Nhật,
                     thôn  Trúc  Khê...  (thuộc  huyện  Sơn  Sương),  xã  Chiêu  Yên,  Quý  Quân,  Kiến
                     Thiết, Trung Trực, Kim Quan (thuộc huyện Yên Sơn). Tại khu căn cứ cũ của
                     Cứu quốc quân (Khuân Đào, Ao Búc, Khuôn Trút  – Sơn Dương) diễn ra hai
                     cuộc mít tinh lớn của nông dân. Trong những cuộc mít tinh đó, các cán bộ cách
                     mạng đã diễn thuyết vạch tội ác của giặc và phổ biến điều lệ, chính sách của Mặt
                     trận Việt Minh.
                            Phong trào quần chúng phát triển, lực lượng Cứu quốc quân ngày càng
                     lớn mạnh, đòi hỏi sự tổ chức và chỉ huy chặt chẽ. Được sự đồng ý củ Trung
                     ương, ngày 25-2-1944, Trung đội Cứu quốc quân III được thành lập tại Khuổi
                     Kịch (Tân Trào – Sơn Dương). Đồng thời, do địa bàn ảnh hưởng của Việt Minh
                     mở rộng nhanh chóng, Trung ương quyết định lấy sông Cầu làm ranh giới chia
                     vùng căn cứ đại thành hai phân khu: Phân khu A (gọi là phân khu Quang Trung)
                     gồm: Bắc Sơn, Võ Nhai, Yên Thế và một phần huyện Đồng Hỷ; phân khu B
                     (gọi là phân khu Nguyễn Huệ) gồm: một phần huyện Đồng Hỷ, Đại Từ, Định
                     Hóa (Bắc Cạn), Sơn Dương, Yên Sơn (Tuyên Quang) và Chợ Đồn (Bắc Thái).

                     Cả hai phân khu đều nằm trong chiến khu II. Sau sự kiện này, Việt Minh phát



                                                                 29
   24   25   26   27   28   29   30   31   32   33   34