Page 295 - Tuyên Quang trong cách mạng tháng Tám
P. 295
nhưng nhà sàn của dân trong bản làm lác đác dọc theo chân đồi, trước mắt là
một suối rộng. Không khí thoáng đạt, không đến nỗi "nghẹt thở" như tưởng
tượng qua tên của bản. Ở đây có nhiều nhà sàn bỏ không, đồng bào người Dao
dân bản, phần lớn sợ máy bay địch đến dò la bắn phá, đã vào chân núi làm lán
để ở. Được chủ vắng nhà vui lòng cho mượn, anh em chúng tôi được chia làm 4
tổ, mỗi tổ ở chung trong một nhà sàn khá rộng. Đến lúc này, thêm một vài anh
em đến muộn, mỗi tổ có tới trên một chục người, sinh hoạt hàng ngày rất vui
nhộn, nhất là buổi tối, ngồi quanh bếp lửa hồng giữa nhà sàn, nướng sắn ăn và
nói chuyện gẫu, vui như Tết, quên hết mọi mệt nhọc lao động ban ngày và
chuyện nhớ nhà như tạm gác lại một bên.
Để có thêm chỗ ở và nơi tập trung lên lớp hàng ngày, biệt lập và yên tĩnh
hơn, với sự giúp đỡ của bà con trong bản, anh em lại vào rừng chặt nứa, vầu, gỗ,
về xây dựng một nhà hội trường rộng rãi, bên kia dòng suối. Để tiện qua lại
hàng ngày đỡ phải lội suối, đề phòng ngày nước lũ dâng cao không qua suối
được, chúng tôi lại ra sức lao động làm thêm một nhịp cầu, vững chắc và cao,
vắt ngang dòng suối. Tất cả mấy công trình trên đã được hình thành nhanh
chóng với sự nỗ lực của tập thể học viên và vài ba anh em thợ mộc dân bản,
dưới sự chỉ đạo trực tiếp của anh "Ba Hoàng", một kiến trúc sư thực thụ, có
nhiều kinh nghiệm.
Chỗ ở và nơi học tập đã xong, còn việc ăn uống hàng ngày ra sao? Việc tổ
chức ăn uống cho cả một trường học ở miền rừng núi lúc này thật là vất vả!
Quản lý toàn bộ công việc này là chị Nguyễn Thị Lý (vợ đồng chí Bảo), được
nhà trường cử chuyên trách, với sự hỗ trợ tích cực của anh Ba Hoàng luôn đi sục
sạo trong xã, tìm nguồn mua thực phẩm, rau quả. Anh em không bao giờ quên
bữa "rau tàu bay" dầu tiên tự hái trên nương của đồng bào. Măng rừng là món ăn
xào nấu hàng ngày, cùng bí ngô, khoai sọ đều là quen thuộc. Riêng gạo, mỗi
tuần một lần anh em phải đi vận chuyển từ kho cung cấp về, cả đi cả về mất một
buổi sáng.
Việc ăn ở đã tương đối ổn định và nề nếp, việc tổ chức học tập bắt đầu.
Thời gian đầu tập trung học ngoại ngữ và sẵn có thầy. Học tiếng Anh, có thầy
giáo người Nhật, một cụ già đã từng làm Tổng giám đốc ngoại thương Nhật
Bản, ở lại Việt Nam, theo ta đi kháng chiến. Học tiếng Trung Quốc, có một
người Việt gốc Hoa tên gọi "Thầy Tiền" (Tiền Ngọc Thông). Còn học tiếng
Nga, có thầy Nguyễn Khánh Toàn, thứ trưởng Bộ giáo dục, kiêm Hiệu trưởng
nhà trường, đồng thời là thầy dạy Triết học Mác-Lê nin và chính trị, thời sự. Sau
này, chuyển sang nghiên cứu về đường lối chính sách kháng chiến sẽ có thầy
giáo dục đặc biệt chuyện trách là Tổng Bí thư Đảng Trường Chinh.
Nói về chuyện học ngoại ngữ, anh em học viên đa số vốn là sinh viên Đại
học Hà Nôi, tiếng Pháp, tiềng Anh ít nhiều đã có vốn khá, nhưng tất cả đều hàng
ngày chăm chú luyện tập môn ngoại ngữ mình đã chọn. Riêng tôi, vốn đã biết
295