Page 834 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 834
834 ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG
xác định chỉ tiêu, kế hoạch cho từng địa nhân (trong đó có một hộ từ Hà Nội lên
phương về huy động dân công, lương xin cấp giấy phép hoạt động) thuộc 12 cơ
thực, gỗ, đá... nhằm khôi phục, nâng cấp sở kinh doanh, với 12 xe ô tô (6 xe tải, 6 xe
các tuyến đường giao thông, cầu cống đã ca) liên tục hoạt động các tuyến trong tỉnh
bị địch phá hoại. Chấp hành chủ trương và liên tỉnh.
trên, để sửa chữa lại cầu đường, xây dựng, Tuy nhiên việc quy định địa điểm bến
cải tạo mạng lưới đường bộ, ngành giao đò, bến ca nô, bến ô tô chưa rõ ràng, nên
thông - vận tải Tuyên Quang đã thành lập đã gây khó khăn trong việc kiểm soát hành
các đội công trình cầu cống để khôi phục khách, hàng hóa.
các cầu cống bị gãy, sập. Nhằm khắc phục Thực hiện công cuộc hàn gắn vết
khó khăn về địa hình và vốn đầu tư, tỉnh thương chiến tranh và xây dựng chủ nghĩa
chủ trương huy động toàn dân đóng góp xã hội, ngành giao thông - vận tải Tuyên
sức người, sức của. Các sinh viên Khóa 6, Quang đã đầu tư sửa chữa và mở mới
Trường cao đẳng Giao thông - Công chính nhiều tuyến đường. Năm 1955, ngành chủ
vừa tốt nghiệp đã tham gia khảo sát, đo yếu tập trung kinh phí và nhân công thực
đạc, thiết kế và hướng dẫn kỹ thuật cho dân hiện tu bổ các trục đường chính: Quốc lộ 2,
công. Kết quả chỉ trong thời gian ngắn, các đường liên tỉnh 13A, đường nội tỉnh. Đã
con đường liên huyện, liên tỉnh đều được điều động hơn 10.000 công nhân tham gia
tu bổ, mở rộng thêm. Riêng năm 1954, đã hai đợt khai thác gỗ, sản xuất được 60.000
sửa được năm con đường dân sinh (trước thanh tà vẹt, trên 3.000m gỗ cầu (nhóm tứ
3
kia thuộc quân sự) với tổng chiều dài thiết) đảm bảo quy cách kỹ thuật, phục vụ
151km, 309m cầu cống. Ngành còn nghiên việc phục hồi tuyến đường sắt Hà Nội -
cứu, hướng dẫn dân công làm đường từ Yên Bái - Lào Cai.
Đài Thị đi Nà Hang. Năm 1956, Tuyên Quang khôi phục
Phương tiện vận tải cũng phát triển. được hàng trăm km đường dân sinh. Sự
Đến năm 1954 đã có 124 chiếc thuyền khôi phục, phát triển bước đầu của mạng
(không kể thuyền nan), trong đó có 113 lưới giao thông tỉnh đã tạo điều kiện cho
chiếc đang hoạt động với tổng trọng tải các phương tiện giao thông thô sơ sẵn có
296 tấn; đóng thêm 9 chiếc thuyền từ 4-10 ở nông thôn, miền núi như ngựa thồ, xe
tấn. Số xe ngựa còn 12 xe, trọng tải 2 tạ ngựa, xe trâu... có điều kiện khai thác,
rưỡi/xe, chuyển bánh sắt sang dùng bánh sử dụng; kích thích sự trao đổi hàng hóa
lốp; xe trâu còn 19 chiếc, trọng tải mỗi trong vùng.
chiếc 2,5 tạ. Các bến đò ngang được giao Từ 1954-1956, cơ sở hạ tầng giao thông
cho các xã quản lý. Toàn tỉnh lúc này đã có cơ bản của Tuyên Quang gồm:
7 ca nô, trong đó có 2 chiếc trọng tải 17 tấn. - Đường do Trung ương quản lý, gồm:
Cũng từ năm 1954, tỉnh thành lập tiểu Quốc lộ 2 (từ Kỳ Cẩm đến Cầu Trì) dài
ban vận tải để giúp việc lãnh đạo công tác 81km, trong đó có 6km trải đá cấp phối,
vận tải. Toàn tỉnh có 25 ô tô các loại, trong còn 75km trải đá dăm; 23 chiếc cầu, trong
đó có 4 chiếc chạy tuyến Tuyên Quang đó có 18 cầu sắt bê tông (tổng chiều dài
- Phú Thọ - Việt Trì - Sơn Tây và 1 chiếc 375m) và 5 cầu gỗ (tổng chiều dài 86m).
chạy tuyến Phú Thọ, Yên Bái. Tổng trọng Đường liên tỉnh 13A (từ Đèo Khế đến bến
tải vận chuyển bằng ô tô khoảng 14 tấn. Hiên) dài 55km, trải đá dăm; với 9 chiếc
Toàn tỉnh có 18 hộ kinh doanh vận tải tư cầu, trong đó có 4 cầu sắt bê tông (tổng