Page 829 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 829
Phêìn thûá tû: KINH TÏË - XAÄ HÖÅI 829
Thời Pháp thống trị, đường giao thông do xây dựng vội vàng và hà tiện nên bộc
ở Việt Nam được chia thành ba cấp loại lộ nhiều yếu kém; không có chương trình
đường: Đường thuộc địa: những tuyến quy hoạch đồng bộ, kết hợp trước mắt với
đường quan trọng tầm quốc gia và xuyên lâu dài. Mật độ đường thấp so với diện tích
quốc gia đi các nước Đông Dương thuộc địa lý, mật độ dân cư. Đặc biệt, vùng miền
Pháp, gồm Việt Nam, Lào, Campuchia; núi phía bắc, trong đó có Tuyên Quang,
Đường thuộc xứ (trong phạm vi Bắc - đường bộ được xây dựng mật độ rất thưa
Trung - Nam và nối ba miền; Đường xâm thớt. Tuy vậy, nói chung trong cả nước thì
nhập (vào các vùng giàu tài nguyên) và giao thông - vận tải thời kỳ này cũng phát
các đường phụ thuộc khác . triển với tốc độ nhanh có hệ thống theo
1
Vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu quy hoạch và với kỹ thuật hoàn toàn mới.
thế kỷ XX, tại Bắc Bộ chính quyền thực Hệ thống đường từ xa xưa được nâng cấp
dân Pháp đã cho gia cố, mở rộng, xây dần, lúc đầu đường được mở rộng 3m, nền
dựng một số tuyến đường bộ liên tỉnh, đó 4 - 5m cho một làn xe, đạt tải trọng thiết kế
là các tuyến từ Hà Nội lên Tuyên Quang cho mặt đường. Các cống nhỏ được xây
đến Hà Giang, Cao Bằng; Hà Nội lên Lào dựng với tải trọng cho xe 16 tấn.
Cai, vào Hòa Bình, đi Quảng Yên... Tuyến Tại Tuyên Quang, giao thông đường
đường từ Hà Nội qua các thị xã Vĩnh Yên, bộ vẫn phát triển chậm, các vùng dân cư
Việt Trì, Phù Đoan đến Tuyên Quang, rồi đường bộ rất thưa thớt, việc đi lại vẫn hết
đi tiếp lên Vĩnh Tuy và Bắc Quang (Hà sức khó khăn. Tiêu chuẩn kỹ thuật làm
Giang) gọi là đường số 2; mặt đường đường thấp, nền mặt đường hẹp (2,5 -
được rải đá. Đường số 2, 3, 4, 5 và 6 của 3,5m), độ dốc lớn, nhất là các đoạn đường
Bắc Bộ thuộc loại những đường thuộc địa qua đèo có nhiều cua gấp chênh vênh trên
khác. Để phục vụ mục đích quân sự và các bờ vực sâu.
hoạt động kinh tế, vơ vét tài nguyên (khai Đường giao thông nông thôn, miền
thác mỏ, chuyên chở, buôn bán nông, lâm núi của tỉnh thời kỳ này không có công
sản...), thúc đẩy giao thương giữa các trình đáng kể nào được xây dựng; chủ yếu
vùng miền, chính quyền cai trị còn cho xây vẫn là đi lại trên đường mòn, đường làng,
dựng tại Tuyên Quang tuyến đường bộ đi ngõ xóm, bản nọ sang bản kia..., do dân
Đầm Hồng - Chiêm Hóa, chủ yếu phục vụ địa phương tự tạo ra. Lượng hàng hóa vận
cho việc chuyên chở quặng khai thác từ tải ở địa phương chủ yếu là lâm thổ sản...
mỏ Phia Khao (thuộc Bản Thi, huyện Chợ nhưng phần lớn số tre, gỗ khai thác được
Đòn (Bắc Kạn), theo đường cáp treo và vẫn phải dùng sức trâu kéo, sức người
đường goòng qua Kiên Đài về Đầm Hồng - vác, gùi hoặc lao từ nơi khai thác xuống
Chiêm Hóa. Từ Chiêm Hóa sẽ theo tuyến sông, suối gần nhất; sau đó kết thành bè,
đường thủy (theo sông Gâm) và đường bộ mảng rồi dùng sào đẩy hoặc mái chèo, chở
về nhà máy bột kẽm tại Tràng Đà (thành về xuôi hoặc nơi tập kết. Lâm thổ sản các
phố Tuyên Quang). vùng cao được đưa xuống các chợ, hàng
Hệ thống đường bộ tại Việt Nam nói tiêu dùng từ các phố huyện, các chợ chở
chung được thiết lập trong thời kỳ này, ngược lên vùng cao thường phải gùi, địu
1. Xem Viện Sử học: Lịch sử Việt Nam (1858-1896), Sđd, tr. 107.