Page 827 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 827

Phêìn thûá tû: KINH TÏË - XAÄ HÖÅI  827


               hàng); tiến tới là xe hai bánh, có càng do          Từ rất sớm, người dân Tuyên Quang đã
               súc vật kéo.                                    biết dùng tre, nứa hoặc gỗ ghép lại thành
                   Do đường đất quanh co hiểm trở, nên         bè, mảng để vận chuyển, đi lại trên sông,
               việc đi lại trên bộ rất tốn thời gian, thường   suối. Về sau, dùng thuyền nan, thuyền độc
               được tính bằng ngày đường. Sách Kiến văn        mộc rồi thuyền gỗ để vận chuyển; dùng
               tiểu lục từng viết “từ xã Thúc Thủy, là lỵ sở   mái chèo, hoặc sào đẩy để đưa thuyền đi.

               trấn Tuyên Quang trở lên đến xứ khe Tham            Song song với sự phát triển nghề đóng
               Thổ thuộc các xã Tụ Long, Phấn Vũ, châu         thuyền  vận  tải  lớn,  việc  khai  thông  các
               Vị Xuyên, đường đi gồm 40 ngày, phải qua        đường thủy lớn bằng cách phá đá ngầm,
               khá nhiều cầu, khe, trèo đèo, lội suối hiểm     để cho các thuyền trọng tải lớn đi lại dễ
               trở. Đường từ trấn Tuyên Quang đi Trung         dàng, cũng được chú trọng. Đến thời Trần,
               Mang,  đường  bộ  khó  đi,  phải  đi  đường     buôn  bán  phát  đạt,  giao  lưu  xuôi  ngược
               thủy” . “đường thủy hành quân từ trấn sở        nhiều  nên  các  sông  ở  Hà  Giang,  Tuyên
                     1
               Tuyên Quang đi Hà Giang, ngược sông Cả          Quang đã được Nhà nước cho khơi thông,
               (sông Lô) đi lên... mất 19 ngày rưỡi” ....      nạo vét để việc vận chuyển thuận tiện hơn.
                                                    2
                   Đến thời Nhà Nguyễn (nửa đầu thế kỷ             Tuy  vậy,  vận  tải  thủy  vẫn  chưa  có
               XIX) giao thông đường bộ nước ta đã phát        phương tiện chuyên dùng để vận chuyển
               triển  thêm  một  bước,  với  một  số  hướng    hành khách. Chỉ triều đình mới có thuyền
               tuyến đã hình thành theo các dạng đường         rồng, chuyên dùng để đưa vua chúa, quan
               trục chính chạy dọc ngang đất nước. Tại         lại đi kinh lý. Hành khách đi lại thì chủ yếu
               miền  núi  phía  bắc,  chính  quyền  phong      là người buôn bán kiêm giao dịch; thường

               kiến đã cho làm một số đường bộ từ Thăng        đi theo hàng trên các thuyền chuyên chở
               Long (Hà Nội) qua Tuyên Quang lên Hà            hàng hóa để áp tải hàng. Thỉnh thoảng, có
               Giang, Cao Bằng; Thăng Long - Hòa Bình,         một số ít người có nhu cầu đi lại đều phải
               Thăng Long - Quảng Yên, v.v.. Như vậy,          đi nhờ các thuyền vận tải hàng hóa.
               có thể hiểu rằng, đến thời gian này, Tuyên          Đến  thế  kỷ  XVIII,  việc  khai  thác  các
               Quang  đã  có  một  tuyến  đường  bộ  dạng      mỏ đồng, vàng, bạc, kẽm, thiếc cũng như
               trục đã được chính quyền phong kiến đầu         việc  sản  xuất  lúa,  gạo,  muối,  nông,  lâm
               tư xây dựng.                                    thổ sản và các hàng hóa khác đã khá phát

                   Do có nhiều sông, suối nên giao thông       triển,  khiến  nhu  cầu  về  thuyền  vận  tải
               đường  thủy  ở  Tuyên  Quang  phát  triển       tăng lên. Thương nhân cũng đóng thuyền
               thuận lợi và sớm hơn đường bộ. Đại Nam          lớn dài đến 30 - 50 thước. Hàng hóa vận
               nhất  thống  chí  của  Quốc  sử  quán  triều    chuyển chủ yếu bằng đường thủy gắn với
               Nguyễn có ghi chép lại: “sông Lô có 173         việc hình thành một số bến đò, chợ: chợ Ỷ
               thác, nước chảy như tên bắn, đường thủy         La, chợ Thụt, chợ Tân Yên, chợ Thúc Thủy

               rất  là  hiểm  trở” ;  sông  Gâm  “lòng  sông   ở huyện Hàm Yên; chợ Tòng Lệnh ở châu
                                3
               nhỏ hẹp lại nhiều đá ngầm, thuyền đi qua,       Lục Yên; chợ Riêng ở châu Chiêm Hóa...,
               người tất phải lên bờ đi bộ, theo ven núi       Thuộc địa phận huyện Hàm Yên có các bến
               ước một hai canh rồi lại xuống đi thuyền” .     đò Ỷ La, Thúc Thủy, Cường Nỗ. Tại Tuyên
                                                         4


                   1. Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục, Nxb. Văn hóa - Thông tin,  Hà Nội, 2007, tr.405.
                   2. Lê Quý Đôn: Toàn tập, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977, t.II, tr. 358-359.
                   3, 4. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1992, t. 4, tr. 348, 351.
   822   823   824   825   826   827   828   829   830   831   832