Page 826 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 826
Chương IX
GIAO THÔNG - VẬN TẢI
I- GIaO THÔNG - VẬN TẢI TUYÊN QUaNG cầu cống kiên cố bằng nguyên liệu gỗ, đá
QUa CÁC THỜI KỲ có sẵn ở địa phương.
Kỹ thuật xây dựng đường dần đảm
1. Thời kỳ phong kiến (trước năm 1884)
bảo được độ bằng phẳng và kiên cố,
Tuyên Quang nằm ở địa thế khá cheo nhưng chưa thẳng và chưa có chất kết
leo, hiểm trở, với “núi non chằng chịt, dính bề mặt. Để hoạt động giao thông có
rừng rú rất nhiều” . Đất rộng, dân cư thưa tổ chức hợp lý hơn, trên các đường bộ,
1
thớt, sống rải rác trong các bản làng hay Nhà nước cho lập các cung, trạm. Đó là
trên những vùng rẻo cao xa xôi, hẻo lánh. nơi coi giữ, chỉ huy sửa chữa từng đoạn
Vì vậy, việc đi lại rất khó khăn. đường, cũng là nơi để phu lục lộ và khách
Do nền kinh tế thuần nông, tự cấp tự bộ hành nghỉ ngơi.
túc nên nhu cầu đi lại, giao thương, liên Có hai loại cầu chính: loại cố định
lạc không đáng kể. Cùng với những con bằng tre, gỗ, gạch đá; loại di động là cầu
đường mòn là những con đường nhỏ, hẹp phao (thường là bè mảng được kết nối
được hình thành do dân địa phương đi lại bằng gỗ, tre, nứa, lau, sậy...) bắc ngang các
thăm họ hàng, vào rừng săn bắt muông bến sông.
thú, hái lượm sản xuất... từ đời này qua Phương tiện vận tải hàng hóa trên
đời khác, trên đường có những chiếc cầu bộ ban đầu chủ yếu là quang gánh hoặc
nhỏ đơn sơ bắc qua khe, suối, vực... dùng sức người khiêng, gánh, vác, đội,
Sau này, các quan lại, người giàu địu, kéo... Sau đó dùng nhiều loại súc vật
thường dùng xe ngựa để đi lại, hoặc dùng (voi, ngựa, trâu, bò...) để chuyên chở. Đặc
ngựa để thồ hàng, hoặc mỗi lần có những biệt, vùng Tuyên Quang có nhiều giống
cuộc hành quân lớn, triều đình lại cho mở ngựa tốt, nên việc sử dụng ngựa thồ hàng
thêm đường, nên đường sá ở Tuyên Quang hóa, chở người đi lại khá phổ biến. Theo
cũng dần dần được xây dựng thêm. Theo thời gian, kinh tế phát triển, nhu cầu vận
đó, triều đình cho ghi chép, vẽ bản đồ hệ chuyển ngày một tăng, con người đã chế
thống đường bộ cả ở miền xuôi và vùng tác ra những chiếc xe, mà loại xe có bánh
núi. Khi cần thì huy động hàng chục vạn gỗ đơn sơ nhất là xe cút kít, xe quệt (được
nhân công đắp mới hoặc tu sửa theo định làm bằng hai cây gỗ chặt vát, ghép với
kỳ. Trên các tuyến đường cũng xây dựng nhau, dùng sức trâu kéo để vận chuyển
1. Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2007, tr. 388.