Page 386 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 386
386 ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG
cho mỏ đồng Tụ Long là 800 cân đồng và Nam thực lục chính biên cũng chép dưới
4 dật bạc (tức 40 lạng, 1 dật = 1 hốt = 10 triều Nguyễn, người Nùng Lục Khu Lũng
lạng) mỗi năm trong khoảng thời gian thường làm thuê cho phụ đạo. Năm 1821,
1
từ năm 1757 đến năm 1772, và đến năm Minh Mệnh giảm 50% thuế thân cho dân
1773 tăng lên 1 vạn cân đồng, còn bạc thì 11 trấn ở Bắc Thành, riêng người Nùng,
vẫn như cũ. Vào cuối thế kỷ XVIII, mỏ Tụ người Mán, Hoa kiều, “người Nùng Lục
Long có thời gian bị hoang phế. Sang thế Khu Lũng làm thuê cho phụ đạo” vốn
kỷ XIX, các thổ tù Hoàng Phong Bút, Ma Sĩ không đóng thuế thân thì được giảm 50%
Trạch, Nguyễn Thế Nga, Nguyễn Thế Thự số thuế đánh theo số người, số bếp hay số
kế tiếp lĩnh trưng mỏ đồng này. Nhưng do gia đình.
cuộc nổi dậy của Hoàng Phong Bút vào Thổ tù là những người thuộc tầng
năm 1808, nên mỏ cũng có một thời gian lớp thống trị vốn có nhiều thế lực và đặc
ngừng hoạt động từ năm 1810 đến năm quyền, đặc lợi ở vùng thiểu số, nhiều
1814. Không có tài liệu nào ghi chép cụ người trong số họ còn mang cả chức tước
thể về quy mô và cách thức khai thác của của triều đình. Ví dụ Ma Sĩ Trạch là một
mỏ đồng Tụ Long, nhưng căn cứ vào mức thổ tù lớn ở Chiêm Hóa, đồng thời giữ
thuế của triều đình thì nói chung đây là chức Tuyên úy sứ.
một trường mỏ lớn và trong khoảng đời Trong những trường mỏ do thổ tù
Gia Long, Minh Mệnh công việc khai mỏ thiểu số lĩnh trưng cũng có một số phu mỏ
có chiều hướng phát triển. Trong đời Gia người Hoa kiều. Nhưng căn cứ vào việc
Long, mức thuế do Nhà nước quy định là bồi thường số thuế thiếu của mỏ Tụ Long,
13.000 cân đồng và 40 lạng bạc; năm 1829, thì thấy rằng những phu mỏ Hoa kiều
Minh Mệnh tăng thuế lên 80 lạng bạc, còn phần lớn làm thuê trực tiếp cho những
đồng vẫn như cũ. thương nhân Hoa kiều thuê lại một vài
Trong những trường mỏ do các thổ hầm mỏ do thổ tù lĩnh trưng. Nguyễn Thế
tù khai thác, cũng có hiện tượng thuê Nga và Hoàng Kim Đỉnh lĩnh trưng mỏ Tụ
mướn nhân công khá phổ biến. Những Long thiếu 26.893 cân đồng thuế bị cách
nhân công này phần lớn là người thiểu số chức và không cho lĩnh trưng nữa. Sau đó,
và một số Hoa kiều. Trong những tài liệu năm 1827, các quan ở Bắc Thành giao cho
lịch sử vào cuối thời Lê đầu thời Nguyễn, Nguyễn Thế Thự, là con Nguyễn Thế Nga,
thường thấy chép người Nùng hay đi khai lĩnh trưng và Thự cũng thiếu 26.893 cân
mỏ và làm thuê. Vào nửa sau thế kỷ XVIII, đồng thuế. Năm 1828, triều đình sai tịch
Lê Quý Đôn cho biết rằng, người Hóa thu gia tài của người lĩnh trưng trước và
Thường tức là người Nùng Hóa Vi chép sau, cùng với 28 người khách trưởng để
trong Cương mục, vốn là người Hồ Nam bồi thường số thuế thiếu. Những người
(Trung Quốc) rất thông thạo nghề tìm mỏ khách trưởng này là những Hoa kiều thuê
và khai mỏ vàng, bạc, sắt, đồng. Riêng ở lại một số hầm mỏ của người lĩnh trưng để
mỏ đồng Tụ Long có đến 3.000-4.000 người khai, nên mới phải chịu trách nhiệm bồi
Hóa Thường và ở vùng Thái Nguyên, thường một phần số thuế thiếu. Vào thời
Lạng Sơn, Hưng Hóa cũng có một số . Đại Lê mạt, cũng đã có những thương nhân
2
1, 2. Xem Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục, Sđd, tr.413.