Page 381 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 381

381
                                                                          Phêìn thûá ba: LÕCH SÛÃ


               phục. Sự phát triển của kinh tế hàng hóa        giải tán bớt như trường hợp mỏ bạc Tống
               cũng là động lực thúc đẩy sự phát  triển        Tinh năm 1767.
               của nghề khai mỏ, đặc biệt ở giai đoạn thế          Năm 1728, bằng việc đấu tranh ngoại
               kỷ XVIII. Nhà nước bắt đầu quản lý chặt         giao  kết  hợp  với  quân  sự,  triều  đình  Lê
               chẽ các trường mỏ từ khâu khai thác, sản        Trịnh đã đòi lại được mỏ đồng Tụ Long
               xuất, vận chuyển, mua bán... Nhà nước đã        ở vùng Tuyên Quang bị nhà Thanh chiếm

               khẳng định độc quyền quản lý việc khai          vào những năm cuối của thế kỷ XVII. Đây
               thác  các  mỏ.  Chế  độ  quản  giám  bắt  đầu   là mỏ đồng quý có trữ lượng lớn nhất ở
               được thực hiện từ năm 1760. Thành phần          thời bấy giờ. Sau một thời gian bị đình trệ,
               của quản giám thuộc ba tầng lớp:                khoảng  từ  năm  1756  trở  đi,  ngành  khai
                   - Các vương hầu, quý tộc.                   thác mỏ được phục hồi. Năm 1757, biên
                   -  Các  quan  lại  trong  triều  đình  tự   thú châu Vị Xuyên là Hoàng Văn Kỳ xin
               nguyện xin làm.                                 khai lại mỏ đồng Tụ Long. Chúa Trịnh cử

                   - Các thổ tù quan lại địa phương có các     thêm quan giám đương ở Hộ phiên và quan
               mỏ khoáng sản .                                 lưu thủ Tuyên Quang cùng trông nom việc
                               1
                   Phan Huy Chú đã đánh giá cao hình           khai thác ở đây. Mức thuê nhà nước quy
               thức quản lý này bởi trước đó các mỏ khai       định cho mỏ đồng Tụ Long là 1 vạn cân
               thác “nộp thuế 10 phần chỉ được 1”. Nhà         mỗi năm . Đây là mức thuế cao nhất cho
                                                                        3
               nước  còn  khuyến  khích  bằng  biện  pháp      trường mỏ có trữ lượng và năng suất lớn
               “miễn thuế cho 5 năm, sau đó chiếu số sản       nhất ở nước ta thời đó.
               xuất hằng năm mà bổ thuế. Viên quan nào             Phương  thức  khai  thác  trong  các
               khai thác xong mỏ thì cho vĩnh viễn được        trường mỏ ở Tuyên Quang cũng như trong
               quản giám để họ nỗ lực đôn đốc công việc,       hầu hết các mỏ ở Đàng Ngoài thời bấy giờ
               làm lợi thuế khóa cho nhà nước” .               vẫn mang tính chất thủ công. Quặng được
                                                2
                   Người muốn khai thác bất kỳ mỏ nào          đào lên bằng những dụng cụ thô sơ sau đó
               phải có đơn xin phép và được Nhà nước           được đãi rồi nấu trong những lò nổi thô

               chấp  thuận  mới  được  tiến  hành.  Người      sơ. Với một quy trình hoàn toàn thủ công
               khai thác phải tự bỏ vốn để chiêu tập nhân      như  vậy,  người  thợ  không  thể  tận  dụng
               công và tổ chức khai thác. Nhân công có         hết nguồn tài nguyên trong lòng đất, năng
               thể là người trong nước hoặc người nước         suất lao động cũng chỉ đạt được ở mức tối
               ngoài. Số lượng nhân công trong các hầm         thiểu. Tại những hầm mỏ có sử dụng lao

               mỏ  đã  được  Nhà  nước  quy  định  rõ  vào     động người Trung Quốc có tay nghề cao,
               khoảng năm Vĩnh Thịnh (1705 - 1719): mỏ         có kinh nghiệm khai thác nên trong công
               nhiều là 300 người, mỏ vừa là 200 người         việc khai thác có sự phân công hoặc hiệp
               và mỏ ít là 100 người. Sau đó vẫn có hiện       tác giản đơn, chính vì vậy năng suất lao
               tượng  các  mỏ  ở  vùng  biên  giới  mộ  quá    động cũng cao hơn. Nhưng cũng tại các
               nhiều nhân công Trung Quốc như người            mỏ  này,  các  sản  phẩm  khai  thác,  trừ  đi
               Triều Châu gây nên tình trạng mất ổn định       phần đóng thuế, hầu hết lại bị các thương

               ở vùng biên giới, triều đình phải can thiệp,    nhân  đem  về  Trung  Quốc,  đây  chính  là


                   1. Xem Viện sử học: Lịch sử Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007, t.IV, tr.219.
                   2. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Quốc dụng chí, Sđd, t.III, tr.78.
                   3. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.I, tr.711.
   376   377   378   379   380   381   382   383   384   385   386