Page 380 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 380
380 ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG
tâm đến việc phục hồi và phát triển nền ngoài. Tuyên Quang có nguồn lợi về mỏ là
kinh tế, ổn định xã hội. mỏ đồng (Tụ Long).
Tuyên Quang là tỉnh có nhiều tài Có hai hình thức khai mỏ:
nguyên, sản vật, rất thuận tiện cho việc 1. Do Nhà nước bỏ vốn khai thác.
canh tác nông nghiệp và phát triển nghề 2. Cho tư nhân đứng ra khai thác.
khai mỏ. Phan Huy Chú cũng chép về một Những mỏ do tư nhân đứng ra khai thác
số vùng đất có hầm mỏ bấy giờ, trong đó lại chia thành ba nhóm:
có Tuyên Quang: xứ Hưng Hóa sản xuất - Chủ mỏ người dân tộc, chủ yếu là
ra bạc, đồng, thiếc; xứ Tuyên Quang: châu các tù trưởng. Họ thường huy động nhân
Bảo Lạc sản xuất ra vàng, bạc, sắt, thiếc; công là những người sống trong các vùng
châu Lục Yên thì sản xuất ra chì, đồng, mình cai quản và khai thác bằng một kỹ
diêm tiêu... . Nhờ sự phát triển của nghề thuật thấp kém và phương thức đơn giản.
1
khai mỏ ở Tuyên Quang nói riêng và các - Một số chủ mỏ là người Việt, họ là
châu miền núi phía Bắc nói chung mà năm những quan chức ở miền xuôi nhận với
1450, nhà Lê đã giải quyết được nạn thiếu triều đình xin thầu và thuê người Việt lên
tiền đồng vào buổi đầu thời Lê sơ (vì thời khai thác.
nhà Hồ và thời Minh đô hộ chỉ dùng tiền - Chủ mỏ là người Hoa thường đưa
giấy, sau cuộc kháng chiến chống Minh số nhân công từ Trung Quốc sang. Sản phẩm
tiền đồng “trăm phần chỉ còn độ một”). thu được một phần nộp cho Nhà nước Lê -
Theo ghi chép của Dư địa chí, sản vật Trịnh, còn lại chở về Trung Quốc.
của Tuyên quang thời đó ngoài các khoáng Từ nửa đầu thế kỷ XVII, Nhà nước chú
sản còn có dầu, nến, trầm hương, răng voi, ý đến việc khai thác các mỏ khoáng sản để
áo cỏ. Đặc biệt nghề dệt khá phát triển ở phục vụ cho nhu cầu chiến tranh và quốc
vùng này: “người Thổ dệt vải vàng ánh, dụng. Nhưng do điều kiện khách quan
thêu xanh, trông rất đẹp” . như cuộc nội chiến Lê - Mạc kéo dài gây
2
2- Thời Lê Trung Hưng nên sự bất ổn định ở khu vực miền núi, các
Một trong những chính sách kinh tế thổ tù ở đây lại chỉ bị ràng buộc với chính
đối với Tuyên Quang được triều đình rất quyền trung ương một cách lỏng lẻo nên
quan tâm đó là chú trọng phát triển nghề triều đình không thể quản lý, điều hành.
khai mỏ. Việc khai thác mỏ ở giai đoạn này chủ yếu
Thế kỷ XVI, XVII, và đầu XVIII có do các tư nhân tiến hành rồi nộp thuế cho
nhiều mỏ được khai thác, như mỏ đồng triều đình. Ở vùng biên giới người Hoa
Tụ Long (Tuyên Quang), mỏ đồng Tống kéo sang khai thác gây nên nhiều sự lộn
Tinh, Vụ Nông, Sảng Mộc (Thái Nguyên), xộn không thể kiểm soát nổi.
mỏ bạc Long Xưởng, Long Tinh (Tuyên Từ nửa sau thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII,
Quang), mỏ vàng Kim Mã, Tam Lộng tình hình chính trị tạm thời ổn định, Nhà
(Thái Nguyên), mỏ kẽm, mỏ thiếc... Nghề nước có điều kiện quan tâm thích đáng và
khai mỏ nói chung, đặc biệt là khai thác đầu tư vào công cuộc khai thác. Những
đồng đã thu hút sự chú ý đầu tư của Nhà hiện tượng tiêu cực trong nghề khai mỏ ở
nước, của tư nhân và cả thương nhân nước vùng biên giới phía Bắc đã dần được khắc
1. Xem Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Quốc dụng chí, Sđd, t.III.
2. Nguyễn Trãi: Dư địa chí toàn tập, Sđd, tr.229.