Page 382 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 382

382     ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG



               sự thất thoát về tài nguyên rất đáng tiếc       giữ địa vị thống trị như trước nữa thì Phật
               mà  chính  quyền  Lê  -  Trịnh  không  quản     giáo lại có điều kiện phát triển. Nhiều ngôi
               lý được. Tình trạng nhập cư hỗn loạn và         chùa  lớn  được  trùng  tu  lại.  Nhiều  chùa
               việc các phu mỏ nước ngoài gây rối trật tự      mới được xây dựng, có không ít chùa là
               trị an ở các khu vực khai thác cũng khiến       do hoàng thân, hoàng tộc nhà Mạc, họ Lê -

               nhà nước phải áp dụng nhiều biện pháp           Trịnh và các quan lại các cấp góp tiền của.
               để hạn chế số lượng nhân công và hạn chế            Tuyên Quang thời kỳ này cũng có một
               việc mở rộng phạm vi các mỏ.                    số  ngôi  chùa  được  xây  dựng  như  chùa
                   Mối lợi tự nhiên của các loại mỏ khoáng     Hương Nghiêm (hay còn gọi là chùa Hang)
               sản đã đóng góp một phần không nhỏ cho          ở  dưới  chân  núi  Hương  Nghiêm,  thuộc
               nền tài chính quốc gia ở thế kỷ XVII, XVIII.    xóm Phúc Thọ ở xã An Khang, thành phố
               Phan Huy Chú đã từng nhận xét về điều           Tuyên  Quang;  chùa An  Vinh  có  tên  chữ

               này: Mối lợi về hầm mỏ phần nhiều là các        là “An Vinh thiền tự” thuộc tổ 7, phường
               xứ Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên,          Hưng Thành, thành phố Tuyên Quang.
               Lạng Sơn. Các mỏ vàng, bạc, đồng, thiếc,            Giáo dục – thi cử
               đáng giá không biết bao nhiêu của. Việc             Tại Tuyên Quang, thời Lê Thánh Tông
               chi dùng của nhà nước sở dĩ được dồi dào
               là do ở thuế các mỏ nộp đầy đủ...” .            (thế  kỷ  XV)  có  ông  Tạ  Thông  thôn  Yên
                                                  1
                   Từ nửa sau thế kỷ XVIII, ở Đàng Ngoài       Hưng, xã Yên Hưng, huyện Sùng Yên (nay
               phong trào nổi dậy của nông dân diễn ra         là Hàm Yên) nổi tiếng thần đồng, thi đình
               khắp  nơi,  trong  đó  có  các  cuộc  nổi  dậy   đỗ  Tiến  sĩ  khoa Ất  Mùi  niên  hiệu  Hồng
               của  Hoàng  Công  Chất,  Vũ  Đình  Dung,        Đức thứ 6 (1475), làm quan đến chức Đô
                                                                       2
               Nguyễn  Tuyển,  Nguyễn  Cừ,  Nguyễn             Ngự sử .
               Danh Phương... làm cho các địa phương
               ở  biên  giới  náo  động,  nên  việc  khai  mỏ   III- TUYÊN QUANG THỜI NGUYỄN (1802 -

               không được quan tâm. Sau khi tình hình          1884)
               tạm lắng, nhà nước Lê - Trịnh mới có điều           1. Chính trị, hành chính
               kiện  tập  trung  đến  việc  khai  mỏ,  giao
               cho  các  viên  quan  địa  phương,  thổ  mục        Thời  kỳ  đầu  triều  Nguyễn,  Tuyên
               đứng ra tổ chức lần lượt khai lại. Vì của       Quang là một trong 11 trấn Bắc Thành và

               cải ở đây, công và tư đều có lợi, cho nên       được xếp vào ngoại trấn cùng với Lạng Sơn,
               người đứng ra mộ người làm không ngại           Cao  Bằng,  Thái  Nguyên,  Yên  Quảng  và
               khó nhọc phí tổn, “mỏ này, mỏ khác nhộn         Hưng Hóa. Đứng đầu trấn có chức Trấn thủ,
               nhịp, mà những của ở rừng núi đều được          các chức Hiệp trấn, Tham hiệp giúp việc.
               lấy ra hết”.                                        Thời  Minh  Mệnh,  việc  tuyển  chọn
                                                               quan lại trị nhậm các địa phương rất được
                   3. Văn hóa - Giáo dục                       quan tâm. Trước hết phải là những người

                   Trong các thế kỷ XVI, XVII và XVIII,        có kinh nghiệm vỗ về, phủ dụ an dân, đặc
               trong  khi  Nho  giáo  suy  đồi,  không  còn    biệt là những địa phương ở xa Kinh đô.


                   1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Quốc dụng chí, Sđd, t.III, tr.78.
                   2. Đô ngự sử: Trưởng quan của Ngự sử đài, chức rất trọng. Ngự sử đài là cơ quan có chức năng giữ
               phong hóa pháp độ, giám sát trăm quan và các địa phương.
   377   378   379   380   381   382   383   384   385   386   387