Page 385 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 385
385
Phêìn thûá ba: LÕCH SÛÃ
Mỏ vàng Tiên Kiều vẫn tiếp tục được trưng sau đó, năm 1822 vay trước 15.000
khai, nhưng quy mô ngày càng thu nhỏ lại. quan tính trả lại 25.000 cân đồng đỏ khối,
Theo lời tâu của Bộ Hộ thì cho đến tháng và năm 1823 vay trước 34.000 quan tính
7-1839 số vàng lấy được hằng năm chỉ trên trả lại 100.000 cân đồng. Người lĩnh trưng
dưới 30 lạng và không tăng lên được. Năm cũng được gọi là chủ mỏ và thông thường
1839, số nhân công chỉ còn lại 70 người, cũng phải có người bảo lãnh.
kể cả 22 người mới mộ thêm, trong đó có Những mỏ do các thổ tù thiểu số lĩnh
42 phu mỏ và 28 dân phu, chia làm 7 đội, trưng cũng có những trường mỏ khá lớn,
mỗi đội có 6 phu mỏ và 4 dân phu. Theo tập trung nhiều nhân công. Mỏ đồng Tụ
quy định của Bộ Hộ thì mỗi phu mỏ hằng Long có thể coi là một trường mỏ lớn
tháng phải lấy từ 1 đồng cân 4 đến 1 đồng nhất thuộc loại này. Mỏ này thuộc châu
cân 6 vàng và tính ra mỗi đội hàng tháng Vị Xuyên, thuộc Tuyên Quang là một mỏ
1
phải lấy 1 lạng 7 đồng cân đến 2 lạng đồng tương đối nổi tiếng ở nước ta thời
vàng. Đội nào không lấy đủ số quy định Lê Mạt. Năm 1757, họ Trịnh cho thổ tù địa
thì tháng sau phải đền bù và lấy quá thì phương là Hoàng Văn Kỳ khai thác dưới
thưởng. Nhưng từ tháng 9-1839 đến tháng sự kiểm soát của các quan biên trấn. Mỏ
5-1840, số vàng lấy được còn ít hơn số quy này có cả đồng và bạc xen lẫn, cho nên gọi
định là 18 lạng. Vì vậy, đến năm 1850, triều là mỏ bạc. Bên cạnh đó, mỏ còn có đá nam
đình phải bãi bỏ việc khai mỏ vàng Tiên châm hơn 20 khối nằm trong đất ở khu đất
Kiều và giao cho tư nhân lĩnh trưng mỗi rộng hơn 1 mẫu. Theo Lê Quý Đôn, thì ở
năm nộp thuế 10 lạng vàng cốm. vùng Tụ Long có hai mỏ đồng: Na Ngọ và
Bên cạnh mỏ Tiên Kiều, các mỏ khác Bán Gia. Mỏ Na Ngọ có 26 cửa hầm (tàu
chủ yếu do các thổ tù lĩnh trưng và khai môn) và hằng năm sản xuất 45 vạn cân
thác. Các thổ tù thường bắt dân địa phương đồng. Mỏ Bán Gia cũng có hàng vạn người
đi khai rồi nộp một phần sản phẩm cho làm thuê. Lê Quý Đôn mô tả mỏ Na Ngọ
triều đình trung ương dưới hình thức như sau: “Ở đây thế núi thấp và bằng, hai
cống nạp hay thuế hiện vật. bên mở ra như cánh quạt, trên núi đá có
Chế độ lĩnh trưng đối với các thổ 26 cửa hầm (tàu môn) là Phượng Hoàng,
tù nói chung cũng giống như đối với Thiên Nguyên, Tụ Bảo, Mậu Hưng... ở
thương nhân Hoa kiều. Riêng những thổ dưới là các nhà lò, hai bên có hào rãnh để
tù nào không đủ vốn để sản xuất thì Nhà tiêu nước; trên giữa núi có chùa Thọ Phật,
nước có thể cho vay trước một số tiền rồi miếu Quan Thánh, dưới là xưởng công, là
sau trả lại bằng sản phẩm tính theo giá phố xá, là chợ” .
2
quy định của Nhà nước. Ví dụ đối với Lê Quý Đôn còn dẫn lời Nguyễn Văn
mỏ đồng Tụ Long, trong thời gian Ma Sĩ Đối là người nhà của Hoàng Văn Đồng, em
Trạch lĩnh trưng thì số tiền vay trước của Hoàng Văn Kỳ, cho biết rằng cứ một vạn
Nhà nước tính trả lại bằng đồng theo giá cân đồng có thể lọc lấy được 8 hốt, tức 80
100 cân là 28 quan tiền; những người lĩnh lạng bạc, mức thuế của họ Trịnh quy định
1. Nay thuộc phủ Khai Hóa, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, mỏ này trước thuộc Tuyên Quang, nhưng
vào thế kỷ XIX, sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã cùng với nhà Thanh vạch lại đường biên
giới theo hiệp ước Thiên Tân và vùng Tụ Long bị sáp nhập vào phủ Khai Hóa.
2. Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1962, tr.413.