Page 384 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 384
384 ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG
từ Trung ương xuống đến các địa phương phương và Hoa kiều gọi chung là sa đinh
nên Gia Long ít quan tâm đến việc khai trả tiền công mỗi ngày 2 tiền 20 đồng. Về
mỏ. Một nguyên nhân khác là do không có sau, triều đình có quy định lại cứ trong
người khai thác nên nhiều trường mỏ phải 15 ngày, người nào lấy được 1 đồng cân 3
đóng cửa và bỏ lệ thuế khoáng sản. phân đến 1 đồng cân 9 phân thì được trả
Sang thời Minh Mệnh, tình hình khai tiền công 3 quan, nếu không lấy đủ 1 đồng
mỏ vẫn không được tiến triển. Năm 1820, cân thì lần sau phải bù, nếu lấy quá 2 đồng
lấy lý do là chủ mỏ và phu khoán xiêu tán, cân thì được thưởng. Không rõ số nhân
quan trấn Bắc Thành tâu xin, Minh Mệnh công và thời gian khai là bao nhiêu, nhưng
bèn miễn lệ thuế cho 7 mỏ vàng, đồng, kết quả trong năm 1832 chỉ lấy được 6 lạng
kẽm, chì và diêm tiêu ở Bắc Thành, trong 4 đồng cân vàng cốm.
đó có mỏ chì Phúc Ninh ở Tuyên Quang . Sang năm 1833, công trường khai mỏ
1
Việc khai mỏ trở lại từ năm 1831 với sự Tiên Kiều được mở rộng thêm, số nhân
kiện nhà Nguyễn cho khai mỏ diêm tiêu ở công có lúc lên đến 3.122 người, trong đó
Nà Ngõa, mỏ chì ở làng Nho, huyện Đồng gồm 1.820 lính và 1.302 phu mỏ làm thuê.
Hỷ, trấn Thái Nguyên. Ngoài số lính đã có lương hằng tháng,
Năm 1833, tại các tỉnh biên giới diễn ra riêng 1.302 phu mỏ thì hằng ngày phải trả
cuộc nổi dậy của Nông Văn Vân khiến cho tiền công hết 303 quan 8 tiền. Với số nhân
nhiều hoạt động kinh tế ở Tuyên Quang bị công đông như vậy, mỗi ngày lấy được 11
ngừng trệ, trong đó có nghề khai mỏ. lạng 5 đồng cân 7 phân vàng cốm. Nhưng
Từ năm 1802 đến năm 1851, tổng số mỏ số lượng nhân công ấy có lẽ không duy trì
từng được khai thác là 124 mỏ. Trong đó, được thường xuyên. Từ ngày 1 đến ngày
các mỏ tập trung hầu hết ở các tỉnh Bắc Bộ 28 tháng 6 âm lịch năm ấy, số nhân công
(118 mỏ), nhiều nhất là tỉnh Thái Nguyên chỉ còn 30 lính và 840 phu mỏ (tiền công
(38 mỏ), tiếp đến là Tuyên Quang (21 mỏ), mỗi ngày hết 196 quan), mỗi ngày lấy
Hưng Hóa (17 mỏ), Lạng Sơn (16 mỏ). được 6 lạng 9 đồng cân 8 phân vàng cốm.
Phương thức khai thác mỏ khá đa Triều đình giao cho Tuần phủ Phạm Phổ
dạng: Do Nhà nước trực tiếp quản lý, do trông nom công việc khai mỏ và quy định
Hoa kiều, do người Việt quản lý, do thổ tù mỗi năm phải lấy được trên 100 lạng vàng.
miền núi lĩnh trưng. Nhưng có lẽ kết quả thu được không khả
Ở Tuyên Quang có mỏ Tiên Kiều thuộc quan lắm, nên sang năm 1834 việc khai mỏ
quyền quản lý trực tiếp của Nhà nước. phải tạm ngừng.
Trước đây, mỏ do tư nhân lĩnh trưng hằng Năm 1836, triều đình lại phái Lang
năm nộp thuế 6 lạng vàng cốm. Năm 1831, trung Bộ hộ là Mai Nhật Trang tiếp tục
chủ mỏ không chịu bán thêm vàng cho mở trường khai mỏ Tiên Kiều. Lần này chỉ
Nhà nước nên không được khai thác nữa. khoảng 100 nhân công, trong đó những phu
Năm 1832, triều đình phái người đến mỏ Hoa kiều hay người địa phương được
điều động thổ binh và thuê Hoa kiều, trả tiền công tương đối cao hơn - 3 tiền mỗi
người địa phương khai thác. Binh lính ngày - còn dân phu thường chỉ trả 1 tiền 30
được trả lương gấp đôi. Còn người địa đồng. Nhưng số vàng lấy được rất ít.
1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục chính biên, Sđd, t.II.