Page 368 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 368
368 ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG
Phong tục của cư dân nhìn chung còn Giáo dục – thi cử
thuần phác, đơn giản. Quần áo thường Là vùng đất xa kinh thành, trong suốt
nhuộm thâm hay may bằng vải hoa, ít dùng bốn thế kỷ (X - XIV), Tuyên Quang không
màu sặc sỡ; giày, dép cũng ít được dùng. có người tham gia vào các kỳ thi tuyển
Họ chủ yếu ở trong các ngôi nhà sàn, vừa chọn nhân tài của đất nước. Tuy thế, cũng
để tránh thú dữ, vừa để tránh lũ lụt. có những danh nhân có những đóng góp
Trong các di sản còn lại có bài văn bia lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
chữ Hán được khắc trên một tấm bia đá đất nước thời Lý - Trần - Hồ. Đó là:
với nhan đề là Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi Hà Di Khánh: là danh thần thời vua
(Văn bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc) được Lý Nhân Tông (1072 - 1127). Ông tổ họ Hà
xây dựng trên đồi Khuôn Khoai, thuộc là Hà Đắc Trọng vốn là Châu chủ châu Vị
thôn Vĩnh Khoái, xã Yên Nguyên, phía Long (nay là vùng Chiêm Hóa, Nà Hang,
Tây Nam huyện Chiêm Hóa , tỉnh Tuyên Lâm Bình), đến Hà Di Khánh là đời thứ
1
Quang. Tấm bia tập trung viết về Hà Hưng sáu. Hà Di Khánh sinh năm Kỷ Dậu (năm
Tông, ngay dòng mở đầu đã chép: “Quan 1069). Năm lên 9 tuổi, ông được vua Lý
coi châu Vị Long, tước Phò kỳ lang , Đô tri Nhân Tông cho vời về Kinh gả em gái
*
tả vũ vệ Đại tướng quân, Kim tử quang lộc (Công chúa Khâm Thánh) cho. Năm sau,
Đại phu, Kiểm hiệu Thái phó; Đồng trung ông về Kinh đón cô dâu và được phong
làm Tả đại liêu ban. Nhưng vì tuổi còn
thư môn hạ Bình chương sự, kiêm Quản nhỏ, ông trở lại quê hương cùng cha coi
nội khuyến nông sự, Thượng trụ quốc, ăn sóc đất Vị Long. Năm 1082, ông được rước
lộc phong ấp ba nghìn chín trăm hộ, ăn cô dâu về bản địa.
lộc thực phong chín trăm hộ”. Tấm bia cổ Trong cuộc kháng chiến chống Tống
được khắc dựng sau khi hoàn thành ngôi của Lý Thường Kiệt (năm 1076), cha của
chùa, đã khẳng định công lao giữ vững an ông đem quân truy kích giặc lập công
ninh và xây dựng kinh tế, phát triển văn lớn. Năm ông 17 tuổi, cha mẹ ông đều
hóa trong gần 200 năm dưới triều Lý của mất. Ông được nối chức cha coi giữ châu
15 đời họ Hà trên vùng đất cổ Chiêm Hóa, Vị Long khi mới 18 tuổi. Năm 1086, vua
Tuyên Quang. giao cho ông giữ chức Tiết độ sứ Kim tử
Tại Tuyên Quang cũng có một số ngôi Quang lộc Đại phu, hiệu Thái phó, vẫn
chùa mang dáng dấp kiến trúc Phật giáo giữ chức cũ là Tả đại liêu ban. Sau đó,
thời Lý - Trần, tiêu biểu là chùa Phật Lâm, ông còn được thăng làm Phó ký lang Đô
còn gọi là chùa Núi Man tại thôn Trại Xoan, tri Tả vũ vệ Đại tướng quân, Đông trùng
xã Nhữ Hán, huyện Yên Sơn và Chùa Phúc Thủ môn hạ Bình chương sự, kiêm Quân
Lâm ở thôn Nà Tông, xã Thượng Lâm, nội khuyến nông sự Thái bảo, Thái phó
huyện Nà Hang (Xem chương I: Di tích - Thượng trụ quốc, hưởng thực ấp 3.900
Danh thắng, phần Văn hóa) hộ, thực lộc 900 hộ.
1. Văn bia do Đỗ Văn Hỷ dịch và Thạch Can, Văn Tân hiệu đính. Tác giả văn bia là Lý Thừa Ân
(? - ?), quê quán chưa rõ, sống vào khoảng cuối thế kỷ XI đầu thế kỷ XII, làm quan đến chức Triều
thỉnh đại phu, Đông thượng cáp môn hậu, Thượng thư viên ngoại lang. Năm Nhâm Tý (1132), được vua
cử đi sứ nhà Tống. Văn bia này do ông soạn với sự chỉ đạo của quan Thái phó Hà Hưng Tông, cách
đây chín thế kỷ.
* Tức là Phò mã, con rể nhà vua.