Page 370 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 370

370     ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG



               như sau: “Quý Sửu, (1013),... mùa đông,         tuổi, liền chuẩn bị xâm lược nước ta lần
               tháng  10,  châu  Vị  Long  làm  phản,  hùa     thứ hai.
               theo  người  Man  (Nam  Chiếu).  Vua  thân          Theo  dõi  chặt  chẽ  âm  mưu  và  hành
               đi đánh. Thủ lĩnh là Hà Án Tuấn sợ, đem         động của nhà Tống, Lý Thường Kiệt đã
               đồ đảng trốn vào rừng núi” . Năm 1014,          chủ  trương:  “Ngồi  yên  đợi  giặc  không
                                             1
               Vua Lý điều động Dực Thánh Vương đi             bằng  đem  quân  ra  trước  để  chặn  mũi
               đánh châu Vị Long. Ngay năm sau, sách           nhọn  của  giặc”.  Thực  hiện  chủ  trương
               Đại  Việt  sử  ký  toàn  thư  lại  ghi  sự  kiện:   “tiên phát chế nhân”, cuối năm 1075, Lý
               “Ất  Mão,  (1015),...  Xuống  chiếu  cho  Dực   Thường  Kiệt   trực  tiếp  chỉ  huy  10  vạn
                                                                             5
               Thánh Vương và Vũ Đức Vương đi đánh             quân thủy, bộ của ta bất ngờ tập kích vào
               các châu Đô Kim, Vị Long, Thường Tân ,          các căn cứ của quân Tống mà trung tâm là
                                                         2
               Bình Nguyên, bắt được thủ lĩnh là Hà Án         thành Ung Châu.

               Tuấn đem về kinh sư chém đầu bêu ở chợ              Ngày 18-1-1076, ta bao vây thành Ung
               Đông” . Năm 1037, các sách sử cũng ghi lại      Châu  và  sau  42  ngày  công  phá  dữ  dội,
                      3
               sự kiện Vua Lý cử Khai hoàng vương làm          ngày 1-3-1076, quân ta đã hạ thành. Sau
               Đại nguyên soái, đem quân đi trấn áp các        đó, Lý Thường Kiệt cho rút quân về nước
               châu Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên.           và chuẩn bị cuộc kháng chiến chống Tống.

                   Nguyên nhân của các cuộc nổi dậy bắt            Thành Ung Châu nằm ở nơi tiếp giáp
               nguồn từ lợi ích kinh tế. Điều này được         của hai con sông Tả Giang và Hữu Giang
               đoán định thông qua ghi chép của Cương          (Nam Ninh - Quảng Tây); cửa biển Khâm
               mục: “Người Mán đến châu Vị Long đổi            Châu,  Liêm  Châu  (Quảng  Đông)  và  các
               chác, mua bán, nhà vua sai người đến bắt,       trại sát biên giới vùng Đông Bắc Đại Việt
               tước  được  hơn  một  vạn  con  ngựa.  Đến      như Hoành Sơn, Thái Bình, Vĩnh Bình, Cổ

               đây, Hà Trắc Tuấn làm phản, lại ngả theo        Vạn, Thiên Long đã được quân Tống xây
               người Mán” .                                    dựng thành những căn cứ hậu cần và quân
                            4
                   Tuy thế, cuộc nổi dậy của Hà Án Tuấn        sự chuẩn bị cho việc xuất quân xâm lược
               (Hà Trắc Tuấn) bị dập tắt ngay và không         Đại Việt.
               gây ảnh hưởng tới an ninh quốc gia.                 Trong cuộc tiến công này, theo văn bia

                   2- Kháng chiến chống giặc giữ nước          Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi, châu mục họ Hà
                   - Kháng chiến chống Tống thời Lý (1075 -    ở Vị Long đã góp nhiều công sức.
               1077):                                              Sử sách không chép cụ thể những đóng
                   Sau  cuộc  xâm  lược  nước  ta  lần  thứ    góp  của  Tuyên  Quang  vào  cuộc  kháng
               nhất (981) bị thất bại, năm 1075 nhà Tống       chiến chống Tống, trừ cuộc tấn công vào ba
               nhân cơ hội vua Lý mới lên ngôi còn nhỏ         căn cứ ở biên giới Ung Châu, Khâm Châu,



                   1, 3. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.243, 244.
                   2. Châu Đô Kim ngày nay thuộc huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. Châu Vị Long thuộc huyện
               Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Châu Thường Tân chưa xác định được là huyện nào trong tỉnh Tuyên
               Quang hiện nay.
                   4. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.I, tr.291.
                   5. Lý Thường Kiệt (1019 - 1105), quê ở phường Thái Hòa, Hà Nội. Ông đã từng giữ nhiều chức vụ
               quan trọng trong triều đình nhà Lý dưới thời Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, và đặc biệt dưới thời Vua
               Lý Nhân Tông ông đã làm tới chức Phụ Quốc Thái úy giữ cương vị như một Tể Tướng. Ông là người có
               nhiều công lao đóng góp trong sự nghiệp phá Tống, bình Chiêm bảo vệ đất nước ở thời Lý.
   365   366   367   368   369   370   371   372   373   374   375