Page 372 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 372
372 ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG
qua nội dung bài ký trên quả chuông đàn áp. Cùng với nhân dân Thái Nguyên,
Thông Thánh quán ở Bạch Hạc. Bài minh nhân dân Tuyên Quang cũng phối hợp với
chuông do đạo sĩ Hứa Tông Đạo (người nghĩa quân “áo đỏ” chống Minh. Cuộc
Trung Quốc) là môn khách của Trần Nhật khởi nghĩa đã gây cho quân Minh nhiều
Duật soạn vào năm Đại Khánh thứ 8 triều khó khăn và còn kéo dài cho tới tận khi
Trần Minh Tông (1321). Nội dung bài minh khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ.
chuông đặc biệt có ý nghĩa khi tìm hiểu về Cuộc kháng chiến chống quân Minh
lịch sử nước ta thời Trần, trong đó có nhắc của nhân dân ta kéo dài 10 năm (1418 -
đến địa danh Tuyên Quang: Cuối đông 1428). Đất Tuyên Quang không nằm trong
năm Giáp Thân (1285), giặc Bắc đến xâm địa bàn của cuộc kháng chiến. Sách Dư
lược. Bấy giờ Khai quốc vương (tức Trần địa chí của Nguyễn Trãi có ghi về một trận
Nhật Duật) trấn thủ các lộ Tuyên Quang đánh ở Lê Hoa quan: “Lê Hoa cùng Lô ở
ở sông Bạch Hạc cắt tóc thề nguyện với về Tuyên Quang. Lê Hoa là tên núi nay gọi
thần linh đem hết tấm lòng trung để báo là Lê Hoa quan. Khi Lê Thái Tổ khởi nghĩa,
ơn vua...) . sai quan phòng ngự là Trần Ban sửa sang
1
Cuối năm 1287, nhà Nguyên lại xâm chỗ ấy. Sau chống cự chi binh của tướng
lược Đại Việt lần thứ ba. Nhà Trần đã lập Minh là Liễu Thăng ở đấy” .
2
phòng tuyến trên sông Bạch Đằng và Vạn Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi đã kết
Kiếp trên Lục Đầu giang. Trận đại thủy thúc 20 năm đô hộ của nhà Minh, mở ra
chiến trên sông Bạch Đằng năm 1288 của một thời kỳ phát triển mới của dân tộc
quân dân Đại Việt đã làm sụp đổ hoàn Việt Nam.
toàn ý chí xâm lược Đại Việt của đế quốc Nhân dân Tuyên Quang cùng nhân
Mông - Nguyên. Trong thắng lợi chung ấy, dân cả nước đã góp sức người, sức của vào
quân dân Tuyên Quang đã đóng góp một thắng lợi chung ấy.
phần không nhỏ.
- Kháng chiến chống quân Minh xâm lược II- TUYÊN QUANG TỪ THẾ KỶ XV - XVIII
Ngay từ giữa năm 1407, khi nền đô hộ
của nhà Minh vừa được thiết lập đã phải 1. Về chính trị, hành chính
đối phó với phong trào đấu tranh rộng lớn Sau cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng
khắp từ miền xuôi lên miền ngược. lợi, ngày 15-4 năm Mậu Thân (tức ngày 29-
Năm 1410, ở miền núi, nghĩa quân “áo 4-1428), Lê Lợi chính thức lên ngôi Hoàng
đỏ” tiến công huyện Đại Từ. Chính quyền đế tại Đông Kinh khôi phục lại tên nước
đô hộ ra lệnh cho tên Đồng Tri phủ Thái Đại Việt, khai sáng ra triều đại Lê (thường
Nguyên Ma Bá Hổ đàn áp nghĩa quân và gọi là Lê sơ hay Hậu Lê để phân biệt với
đồng thời bắt bọn thổ quan phủ Tuyên thời Tiền Lê thế kỷ X).
Hóa (Tuyên Quang) là Lương Sỹ Vinh, Ngay khi cuộc kháng chiến chưa kết
Hoàng Công Dịch điều động thêm 1.000 thúc, Lê Lợi đã chú ý tới việc xây dựng
quân tinh nhuệ phối hợp với Ma Bá Hổ lên chính quyền, chia cả nước làm bốn đạo:
1. Dẫn theo Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm: Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII,
Sđd, tr. 205.
2. Nguyễn Trãi: Dư địa chí toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, tr. 228.