Page 373 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 373
373
Phêìn thûá ba: LÕCH SÛÃ
Đông, Tây, Nam, Bắc. Trong đó, Tây Đạo chức Thừa chánh sứ và Thừa chánh phó
gồm có: Tam Giang, Hưng Hóa, Tuyên sứ; ở phủ có chức Tri phủ và Đồng Tri phủ;
Quang và Gia Hưng. Sau khi lên ngôi, Lê ở huyện, châu có chức Tri huyện; châu có
Thái Tổ chia cả nước làm năm đạo, gồm chức Tri châu; ở xã có Xã trưởng.
bốn đạo cũ (Đông, Tây, Nam, Bắc) và thêm Năm Quang Thuận thứ 10 (1469), Lê
đạo Hải Tây (từ Thanh Hóa đến Thuận Thánh Tông cho định bản đồ của 12 Thừa
Hóa). Tuyên Quang vẫn thuộc Tây Đạo. tuyên trong nước.
Đứng đầu mỗi đạo, nhà Lê cho đặt Năm Hồng Đức thứ 21 (1490), Lê
chức Hành khiển chuyên việc “sổ sách Thánh Tông chia cả nước thành 13 xứ
kiện tụng về quân dân, những chức ấy và phủ Phụng Thiên. Thừa tuyên Tuyên
đều đứng hàng văn ban, ngang với Tể Quang đổi thành xứ Tuyên Quang.
tướng”. Ngoài ra, ở mỗi đạo lại đặt thêm Từ sau năm Hồng Đức thứ 2 (1471),
chức Chánh Tuyên phủ sứ và Phó Tuyên ở mỗi đạo Thừa tuyên, nhà Lê đặt thêm
phủ sứ để nắm giữ các việc khác. Về đơn Hiến ty có các chức Hiến sát sứ và Hiến
vị hành chính dưới đạo, Lịch triều hiến sát phó sứ. Việc tổ chức trọn vẹn 3 ty Đô,
chương loại chí chép: “Lại định quan các lộ, Thừa, Hiến ở các Thừa tuyên (hay xứ về
các huyện (lộ đặt tri phủ, chưởng ấn sứ, thứ sau) với chức nhiệm riêng từng ty đã góp
đến các chức trấn phủ sứ, an phủ sứ, tuyên phần ngăn ngừa khuynh hướng cát cứ ở
phủ sứ, chiêu thảo sứ; huyện đặt tuần án, các địa phương, tăng cường quyền lực
chưởng ấn, thứ đến chuyển vận sứ [chuyển của chính quyền Trung ương. Điều đó
vận] phó sứ” . Theo Dư địa chí, đất Tuyên đã khẳng định sự phát triển cao của Nhà
1
Quang ở thời điểm này có vị trí “Đông nước Trung ương tập quyền thời Lê sơ.
và Bắc giáp Cao, Lạng. Tây và Nam giáp Tháng 5 năm Hồng Đức thứ 27 (1496), Lê
Sơn, Hưng; có 1 lộ phủ, 1 thuộc huyện và Thánh Tông hạ chiếu tuyển chức quan ở
Hiến sát sứ ty và chức quan ở phủ, huyện,
5 châu, 282 xã. Đấy là phên dậu thứ ba ở châu. Theo lời tâu của quan Ngự sử đạo
phương Tây vậy” . Sơn Nam, triều đình cho phép các châu
2
Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), Lê huyện vùng dân tộc thiểu số có thể chọn
Thánh Tông chia cả nước làm 12 đạo Thừa những người địa phương làm việc tại các
tuyên, trong đó có đạo Thừa tuyên Tuyên nha môn.
Quang, và lấy 2 đạo ở kinh kỳ đặt làm phủ Từ thời Lê Trung Hưng (năm 1533),
Trung đô. Tuyên Quang trở thành một đạo Gia quốc công Vũ Văn Mật có công phò
Thừa tuyên gồm 1 phủ, 2 huyện 5 châu. Lê đánh Mạc được chuyên giữ quyền
Một số đơn vị trung gian như trấn, lộ bị bãi khống chế trấn Tuyên Quang, đóng tại
bỏ để đơn giản bớt hệ thống tổ chức chính Đại Đồng, gọi là dinh An Tây. Họ Vũ
quyền, đồng thời tăng cường thêm quyền chuyên chế cả vùng từ Vũ Văn Mật đến
chi phối của chính quyền trung ương. Vũ Công Đức trải 5 đời. Khi Vũ Công
Ở mỗi đạo Thừa tuyên, nhà Lê cho đặt Đức mất (1669), con là Vũ Công Tuấn
2 ty: Đô ty và Thừa ty. Đô ty gồm các chức được giao trấn giữ Tuyên Quang đã
Tổng binh và Phó tổng binh. Ở Thừa ty có phản bội lại triều đình Lê - Trịnh, đem
1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.I, tr. 534.
2. Nguyễn Trãi: Dư địa chí toàn tập, Sđd, tr. 229.