Page 374 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 374

374     ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG



               3 động Ngưu Dương, Hồ Điệp, Phổ Viên                Năm 1551, Trịnh Kiểm sai hàng tướng
               thuộc châu Vị Xuyên cho Trung Quốc. Nhà         Lê  Bá  Ly  và  tù  trưởng  Vũ  Văn  Mật  (ở
               Thanh nhập 3 động ấy vào phủ Khai Hóa           Tuyên Quang) đem quân tiến sát Kinh đô
               tỉnh Vân Nam. Sau khi diệt được Vũ Công         Thăng Long, buộc vua Mạc phải chạy về
               Tuấn,  năm  1689,  triều  đình  gộp  hai  trấn   vùng Hải Dương.
               Hưng Hóa và Tuyên Quang làm một gọi                 Tháng  11-1559,  Trịnh  Kiểm  cử  Trịnh
               là Tuyên Hưng do trấn thủ Hưng Hóa cai          Quang ở lại trông coi ngự binh; Lê Chủng

               quản. Năm Vĩnh Thịnh thứ 10 (1714) thời         làm Tổng trấn đạo Thanh Hoa coi giữ binh
               Lê Dụ Tông lại chia Hưng Tuyên ra làm           dân; Vũ Sư Thước và Lại Thế Khanh đem
               hai trấn: Hưng Hóa và Tuyên Quang như
               cũ, ở mỗi trấn đều đặt chức Lưu thủ. Ba         quân  tinh  nhuệ  phòng  giữ  các  cửa  biển,
               động thuộc châu Vị Xuyên bị nhà Thanh           còn  mình  tự  thống  suất  6  vạn  quân,  nói
               chiếm, triều đình Lê - Trịnh tranh biện mãi     phao lên là 12 vạn tiến ra Bắc. Hoàng Đình
               để thu hồi lại đất đai đã mất. Trải hơn 50      Ái  được  cử  làm  tướng  tiên  phong  đem
               năm, đến năm 1728, nhà Thanh phải trả           quân theo đường Thiên Quan ra các hạt

               lại cho ta mỏ đồng Tụ Long, phân chia địa       Mỹ Lương và Bất Bạt thuộc Sơn Tây (nay
               giới  lấy  sông  Đổ  Chú  làm  mốc  giới.  Bia   thuộc Hà Nội). Đại quân do Trịnh Kiểm
               mốc dựng ở địa phận xã Tụ Long, bờ nam          chỉ huy sẽ tiếp hội binh các cánh quân của
               sông Đổ Chú ghi rằng: “Địa giới châu Vị         Trấn  thủ  Hưng  Hóa  Đặng  Định  và  Trấn
               Xuyên, trấn Tuyên Quang, nước An Nam,           thủ Tuyên Quang Vũ Văn Mật. Nhân đó
               lấy  sông  Đổ  Chú  làm  căn  cứ.  Năm  Ung     bàn  kế  tiến  quân  qua  sông  đánh  chiếm
               Chính thứ 6 ngày 18 ủy sai lũ Binh bộ Tả        các đạo Thái Nguyên, Lạng Sơn và Kinh

               thị  lang  Nguyễn  Huy  Nhuận,  Quốc  tử        Bắc. Trịnh Kiểm sai Vũ Văn Mật đưa quân
               giám Tế tửu Nguyễn Công Thái phụng chỉ          về trấn thủ Đại Đồng, Đặng Định về trấn
               lập bia này” .                                  thủ An Tây để giữ nơi xung yếu, rồi lệnh
                            1
                   Từ cuối thời Lê sơ cho đến hết thời Lê      cho  các  tướng  huy  động  dân  binh  đắp
               Trung  Hưng,  địa  giới  cũng  như  tên  gọi    đường từ Thiên Quan nối liền với Hưng
               cấp hành chính của Tuyên Quang có nhiều         Hóa, Tuyên Quang thông xuống Kinh Bắc
               thay đổi. Năm Hồng Thuận thứ 4 (1512),
               trấn  Tuyên  Quang  được  đổi  tên  là  trấn    để tiện vận tải lương thực. Quân Lê chia
               Minh Quang.                                     làm nhiều cánh quân tiến đánh quân Mạc,

                   Tuyên  Quang  trong  cuộc  nội  chiến       chiếm  được  các  châu  huyện  thuộc  phủ
               Nam - Bắc triều (1533 - 1592)                   Phú  Bình,  Tường  Khánh.  Đại  quân  của
                   Cuộc  chiến  tranh  Lê  -  Mạc  bắt  đầu    Trịnh Kiểm từ Lạng Sơn kéo xuống đóng
               từ  năm  1533  sau  khi  Nguyễn  Kim  phò       quân tại doanh trại Thuận An cùng cầm cự
               tá  một  con  cháu  của  họ  Lê,  lập  Lê  Duy   với quân Mạc.
               Ninh lên ngôi ở Sầm Châu (Ai Lao) tức               Thời  điểm  này  Nam  triều  đã  làm

               Lê Trang Tông.                                  chủ được phần lớn miền đất ở phía bắc
                   Trong hơn nửa thế kỷ nội chiến, miền        sông  Hồng.  Tháng  4-1560,  Trịnh  Kiểm
               đất  Tuyên  Quang  do  họ  Vũ  cát  cứ  và  ít   cử tướng Hoàng Đình Ái trấn thủ Lạng
               chịu ảnh hưởng của chiến tranh.                 Sơn; Lê Khắc Thận trấn thủ Thái Nguyên



                   1. Nguyễn Văn Siêu: Đại Việt địa dư toàn biên, Sđd, tr. 421-422.
   369   370   371   372   373   374   375   376   377   378   379