Page 324 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 324
324 ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG
thư xuống thì gọi là dinh An Tây. Đến năm đem huyện Bảo Lạc chia ra làm 2 huyện
Vĩnh Thịnh thứ 6 đời vua Dụ Tông [1710], Để Định và Vĩnh Điện. Lại đổi Đại Man
sau khi Công Mật, Đồng Nguyện mất mới làm Chiêm Hóa, đặt thêm phủ Yên Ninh,
đặt chức Lưu thủ Tuyên Quang. Hưng Hóa lấy đất hữu ngạn sông Lô là Vĩnh Tuy,
và Tuyên Quang chia ra 2 trấn bắt đầu từ Hàm Yên, Lục Châu, Thu Châu cho thuộc
đây. Đất Sùng Yên xưa gọi là Lạc Yên, đời Yên Bình, và các đất vùng tả ngạn gồm Vị
Lê đổi là Sùng Yên, sau đó lại đổi là Phúc Xuyên, Chiêm Hóa, Vĩnh Điện, Để Định
Yên. Đất Lục Yên đời Lý gọi là Mậu Châu, cho thuộc vào Yên Ninh. Năm Thiệu Trị
nay ở châu ấy còn có xã Nguy Mậu”. thứ 2 [1842], đổi Yên Ninh làm Tương Yên.
Theo Dư địa chí của Phan Huy Chú, Năm Tự Đức thứ 4 [1850] bỏ bớt huyện
1
cuối thế kỷ XVIII, Tuyên Quang có 1 phủ Lục Yên. Năm thứ 5 [1851] bớt huyện Để
Yên Bình, gồm 1 huyện, 5 châu, 270 xã: Định, quy về phủ ấy kiêm lý. Vậy tỉnh gồm
- Huyện Phúc Yên: 70 xã. 2 phủ, 3 châu, 5 huyện, 4 tổng, 12 xã, phố,
- Châu Thu Vật: 38 xã. phường, trại, vạn [đơn vị hành chính nhỏ],
- Châu Lục Yên: 23 xã. gồm 251 đơn vị”.
- Châu Đại Man: 45 xã. Bộ máy hành chính địa phương đầu
- Châu Vị Xuyên: 63 xã. triều Nguyễn và suốt thời Gia Long gần
- Châu Bảo Lạc: 31 xã. như giữ nguyên theo cách tổ chức cũ của
Như vậy, thừa tuyên hay xứ, trấn triều Lê - Trịnh (miền Bắc). Ngoài đất Kinh
Tuyên Quang, Minh Quang thời Lê vẫn kỳ bao gồm cả bốn dinh là Quảng Bình,
trên địa bàn trấn Tuyên Quang thời Trần. Quảng Trị, Quảng Đức và Quảng Nam,
còn lại toàn bộ đất nước chia làm 23 dinh,
7. Thời kỳ nhà Nguyễn
trấn. Tuyên Quang là một trong 11 trấn
Đặng Xuân Bảng đã viết trong Tuyên thuộc Bắc Thành và được xếp vào ngoại
Quang tỉnh phú như sau: trấn cùng với Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái
2
“Khi triều ta [Nguyễn] mở nước, đức Nguyên, Yên Quảng và Hưng Hóa. Đứng
ý của nhà vua đã thể hiện rõ khi tuần thú đầu trấn có chức Trấn thủ và các chức Hiệp
ra miền Bắc, ngài chấn hưng vùng đất có trấn, Tham hiệp giúp việc.
hai con sông dài bên tả bên hữu, dựng hai Trấn Tuyên Quang khi đó có 1 phủ
phủ sừng sững nhìn nhau đăng đối thống là Yên Bình, 1 huyện là Phúc Yên (sau
lĩnh cả 3 châu và 5 huyện. đổi thành Hàm Yên), 5 châu là Đại Man
Gia Long năm thứ nhất [1802] đặt xứ (sau đổi thành Chiêm Hóa), Thu Vật (sau
Tuyên Quang. Đời Minh Mệnh đổi châu đổi là Thu Châu), Vị Xuyên, Bảo Lạc (sau
Thu Vật và huyện Phúc Yên thành huyện chia làm 2 huyện Để Định và Vĩnh Điện),
Hàm Yên. Năm thứ 12 (1831) đổi trấn Lục Yên.
Tuyên Quang thành tỉnh Tuyên Quang. Tháng 8-1802, triều đình cử Lê Văn
Năm Minh Mệnh 14 [1833], viên thổ tù Thái làm Trấn thủ Tuyên Quang, giúp việc
người thiểu số là Nông Văn Vân làm phản, có Hiệp trấn Nguyễn Trí Hòa và Tham
đến năm thứ 16 [1835] bình định xong, hiệp Nguyễn Văn Hiệp.
1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960, t.I, tr.119.
2. Đặng Xuân Bảng: Tuyên Quang tỉnh phú, Tlđd,