Page 319 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 319
319
Phêìn thûá ba: LÕCH SÛÃ
lập quận. Nước ta bị chia làm 6 quận với và cấp cơ sở gồm giáp, xã. Nhà Tiền Lê
36 huyện: Giao Chỉ (9 huyện), Cửu Chân (980-1009) vẫn giữ nguyên các đơn vị hành
(7 huyện), Nhật Nam (8 huyện), Tỷ Ảnh chính như thời Đinh.
(4 huyện), Hải Âm (4 huyện), Lâm Ấp Nhà Lý (1009 - 1225) đổi 10 đạo thời
(4 huyện). Đinh - Tiền Lê thành 24 lộ (hay phủ).
Nhà Đường thay thế nhà Tùy, sửa lại Trong chính sử chỉ ghi tên 12 lộ, chưa
toàn bộ chế độ hành chính và sự phân chia rõ vị trí các lộ như thế nào. Đơn vị hành
châu huyện, đặt 12 châu. chính địa phương thời Lý gồm có lộ, phủ,
Theo Cương mục, Tuyên Quang thời châu, hương, giáp và thôn. Ở Kinh đô có
kỳ nhà Tần thuộc quận Nam Hải; thời kỳ đơn vị phường. Ở miền núi có các đơn vị
nhà Hán thuộc quận Giao Chỉ; thời kỳ nhà như châu, trại. Tuy có sự thay đổi như vậy
Ngô thuộc Giao Châu; thời kỳ nhà Đường nhưng qua tài liệu ghi chép trong các sách
là Dương Châu . sử ở thời kỳ này vẫn thấy một hiện tượng
1
là việc gọi các đơn vị hành chính chưa
3. Từ họ Khúc đến nhà Đinh - nhà thống nhất, thí dụ: Ái châu (Thanh Hóa),
Tiền Lê - nhà Lý Hoan châu (Nghệ An) có lúc đổi thành trại
Năm 905, nhân cơ hội nhà Đường suy nhưng sau này lại gọi là châu Nghệ An và
yếu, Khúc Thừa Dụ là một hào trưởng, phủ Thanh Hóa. Khu vực vùng sông Đà
được nhân dân ủng hộ đã tự xưng làm vẫn dùng đơn vị đạo (giống thời Đinh, Lê),
Tiết độ sứ, giành được quyền làm chủ đất như đạo Lâm Tây.
nước. Năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, con là Sử thần triều Hậu Lê và sử thần triều
Khúc Hạo nối nghiệp cha, tiến hành một Nguyễn khi ghi chép về các cuộc nổi dậy
số cải cách quan trọng: Đổi hương làm giáp, ở vùng dân tộc thiểu số thời kỳ nhà Lý, có
lập thêm 150 giáp, nâng tổng số giáp lên ghi rất rõ địa danh xảy ra các cuộc nổi dậy:
314 và đặt mỗi giáp một Quản giáp và một Đại Việt sử ký toàn thư chép: Mùa đông,
Phó tri giáp; đồng thời chia cả nước thành tháng 10 năm Quý Sửu (1013), châu Vị
các đơn vị hành chính lệ thuộc từ lớn đến Long làm phản, hùa theo người Man [Nam
nhỏ là lộ, phủ, châu, giáp, xã; đặt ra các Chiếu]. Vua thân đi đánh. Thủ lĩnh là Hà Án
chức Chánh lệnh trưởng, Tá lệnh trưởng Tuấn sợ, đem đồ đảng trốn vào rừng núi .
2
để trông coi các xã; lại định ra hộ tịch, lập Cương mục chép: Tháng 10, mùa đông
sổ khai hộ khẩu kê rõ họ, tên, quê quán. năm Quý Sửu (1013), châu mục Vị Long là
Năm 938, Ngô Quyền đánh bại quân Hà Trắc Tuấn làm phản. Nhà vua tự cầm
Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chấm dứt quân đi đánh, Trắc Tuấn chạy trốn . Tháng
3
hơn 1.000 năm Bắc thuộc. Hệ thống các 2 năm Ất Mão (1015), Hà Trắc Tuấn lại nổi
đơn vị hành chính thời Ngô (938 - 965) vẫn lên làm phản ở các châu Vị Long, Đô Kim,
như thời kỳ họ Khúc nắm quyền cai trị. Thường Tân và Bình Nguyên. Nhà vua sai
Nhà Đinh (968-980) lập hệ thống quản lý Dực Thánh vương và Vũ Đức vương đi
hành chính gồm bốn cấp: Triều đình (cấp đánh, bắt được Trắc Tuấn điệu về kinh đô,
trung ương), đạo (thay cho lộ), phủ - châu chém đầu, bêu ở chợ Cửa Đông .
4
1, 3, 4. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Sđd, t.I, tr. 1086,
291, 293 (bản dịch của Viện Sử học).
2. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, t.I, tr. 243.