Page 202 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 202
202 ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG
Phụ nữ dân tộc Nùng U
II- HOẠT ĐỘNG KINH TẾ VÀ VĂN HÓA loại dao bé và chiếc hái nhỏ (người Nùng
VẬT CHẤT gọi là mạc hép), cắt từng bông cầm giữ ở
tay thành nắm, 3 nắm bằng 1 cum, phơi
1. Trồng trọt trên ruộng, khi khô thì đập vào thùng gỗ.
Người Nùng là cư dân nông nghiệp, Đồng bào làm cỏ cho lúa bằng tay, hoặc
làm nương rẫy và canh tác ruộng nước dùng các loại cuốc bướm cào cỏ... Xen
thành thạo với kỹ thuật khá cao. Người canh với cây lúa nương có rau cải, các loại
Nùng phát nương vào tháng 2, trồng lúa dưa và bầu, bí, đỗ... vừa để có rau ăn vừa
nương vào tháng 4. Gieo lúa nương bằng tăng độ màu mỡ cho đất.
hình thức chọc lỗ, tra hạt. Gậy chọc lỗ, tra Người Nùng làm ruộng 1 năm 2 vụ,
hạt làm bằng cây gỗ, vót nhọn một đầu, bên cạnh đó còn thêm vụ màu trồng ngô,
người đi trước chọc lỗ, người đi sau bỏ hạt khoai,... Người Nùng canh tác ruộng nước
rồi lấp lên một lớp đất mỏng. Khoảng cách giống như các dân tộc lân cận. Họ đắp
giữa các hàng tra hạt khoảng 25 - 30 cm, đập, làm phai, đào mương, khơi máng,
tra một nhúm thóc vào lỗ chọc, sau này dùng cọn nước khi có điều kiện. Các khâu
lúa phát triển thành khóm. Tra hạt theo cày bừa, làm cỏ, bón phân, chăm sóc đều
hai cách: nương dốc thì tra từ trên xuống, rất kỹ lưỡng. Luân canh, xen canh, gối vụ,
nương thoai thoải thì tra từ dưới lên trên. nhằm tăng năng suất nhưng vẫn giữ cho
Những năm đầu, đất còn nhiều màu thì đất màu mỡ, nhờ kỹ thuật bón phân.
trồng lúa; những vụ sau chuyển sang trồng
ngô, lúa mạch, lúa mì. Đến khi nương cằn 2. Chăn nuôi
cỗi, cỏ mọc nhiều thì bỏ hóa và chuyển Cùng với trồng trọt, người Nùng còn
sang phát, đốt nương khác. Lúa được thu phát triển chăn nuôi để đáp ứng nhu cầu
hoạch vào tháng 9, dụng cụ thu hoạch là thực phẩm hằng ngày, đặc biệt là để có sức