Page 186 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 186

186     ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG



                   Ngoài các mối quan hệ về mặt xã hội,        sông núi, ngọn đồi, nhưng được tuân thủ
               các thành viên trong dòng họ còn được           nghiêm ngặt.
               gắn kết bởi đời sống tâm linh. Các thành            Trước đây, các bản của người Tày chỉ
               viên luôn có ý niệm về ông tổ và vị thần        có từ 5 đến 10 hộ gia đình, những bản lớn

               hộ mệnh chung của dòng họ. Một số dòng          có từ 10 đến 30 hộ gia đình sinh sống, gồm
               họ được thừa hưởng ruộng đất của dòng           một vài dòng họ. Ngày nay, các bản của
               họ khác mà những người trong dòng họ            người Tày đã có nhiều thay đổi, các bản
               đó đã chết hết thì lập một miếu thờ ngoài       nhỏ ngày càng ít đi, thay vào đó là các bản
               ruộng để con cháu hương nhang vào ngày          làng lớn do số hộ gia đình tăng lên.

               rằm, ngày lễ, tết hằng năm. Theo phong              Về  tổ  chức  xã  hội,  các  làng  bản  của
               tục truyền thống, vào dịp lễ xuống đồng,        người  Tày  trước  đây  đều  đặt  dưới  sự
               mỗi dòng họ phải làm một mâm cỗ mang            quản lý của các tổng, châu hay huyện, xã
               ra miếu làng dâng lên các vị thần cầu cho       do triều đình phong kiến đặt ra, đơn vị tổ

               mưa thuận, gió hòa. Mâm cỗ do các thành         chức nhỏ nhất trong cộng đồng người Tày
                                                               là bản. Nhà nước phong kiến trung ương
               viên trong họ đóng góp, còn trưởng họ là        cai trị bằng chế độ thổ ty (quằng), từ thời
               người đại diện tiến hành nghi lễ.               Lý đã gả công chúa và phong chức tước
                   Người  Tày  còn  có  tục  nhận  “Tồng”,     cho châu mục người Tày. Từ đời Lê trở đi,
               những  người  sinh  cùng  năm  kết  nghĩa       triều đình còn đặt ra các chức đoàn huyện,

               với nhau, coi nhau như anh em ruột thịt,        thủ ngự, tri châu, đại tri châu để bổ sung
               con cái đều gọi bạn tồng của cha mẹ là bố,      các tù trưởng, chúa đất của người Tày ở
               mẹ tồng. Khi cha, mẹ tồng mất, con cái          các địa phương.
               cũng phải chịu tang như với cha mẹ đẻ.              Đứng  đầu  bản  có  thẩu  bản  (trưởng

               Ngày nay, tục này vẫn được duy trì, song        bản), là người đứng ra quản lý đất đai và
               ít hơn trước.                                   giải quyết các công việc của bản. Vị trí của
                                                               thầy pụt, tạo, then luôn có vai trò và ảnh
                   3. Làng bản
                                                               hưởng lớn đến đời sống lao động, sản xuất
                   Từ  xa  xưa,  người  Tày  thường  chọn      và sinh hoạt, tín ngưỡng, tôn giáo của các
               những nơi có đất đai phì nhiêu, màu mỡ          thành viên trong bản. Tiếng nói của then,

               ở các thung lũng, gần các con sông, con         pụt, tạo là tiếng nói của thần linh nên luôn
               suối để làm nơi cư trú dựng làng, lập bản.      được mọi người tin tưởng và làm theo.
               Mỗi bản làng đều có khu vực cư trú và đất           Cơ chế hoạt động của các bản dựa trên
               đai canh tác riêng. Đất đai cũng như mọi        những quy tắc, quy ước, hương ước của
               sản  vật  trên  vùng  đất  của  làng  như  cây   bản, ai vi phạm sẽ bị phạt, nếu nặng hơn
               cỏ, chim thú, động vật, thực vật... đều do      thì bị đuổi ra khỏi bản. Mặc dù đó chỉ là

               làng quản lý. Tên gọi của làng và ranh giới     những quy định bất thành văn nhưng luôn
               của bản làng do người có công khai phá          được mọi người tôn trọng và tuân thủ. Ở
               làng lập lên, người Tày thường lấy những        các bản Tày truyền thống còn có tổ chức xã
               đặc trưng của vùng đất đó, như: địa hình,       hội người Tày gọi là “phe”, chuyên lo việc
               một tảng đá, con chim, một loại cây cối,        tang ma cho các gia đình. Khi trong làng
               chim thú, động vật, thực vật... để đặt tên      có người chết thì phe là đứng ra lo liệu, tổ
               cho bản làng. Ranh giới bản làng chỉ mang       chức giúp đỡ gia đình từ các nghi lễ đến

               tính  quy  ước  như  khúc  sông,  con  suối,    việc bố trí, phân công mọi người đến giúp
   181   182   183   184   185   186   187   188   189   190   191