Page 1091 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 1091

1091
                                                                        Phêìn thûá nùm: VÙN HOÁA


               mặt, xây đá bốn bề, lấy đồi đất ở trong làm     Xuân  Lôi...”.  Về  những  tấm  gương  trinh
               hiểm cố. Sông Lô vây quanh để làm hào.          liệt  như  Lâm  Thị  Cao,  người  Gia  Thận,
               Giáo mác thì giấu trên trường thành. Đài        châu  Chiêm  Hóa;  Nghi  Thị  Nghị  thôn
               bắn pháo thì cao vòi vọi... Trước là thành      Cẩm La, châu Thu; về gương dẹp loạn có
               bằng  đất,  năm  Thiệu  Trị  thứ  4  (1844),    Ma Thế Cử, Hoàng Văn Phác. Về khoáng
               xây bằng đá ong... Năm Minh Mệnh giặc           sản  quý  như:  mỏ  sắt,  mỏ  bạc,  mỏ  đồng,

               Nông Văn Vân bao vây thành trong mấy            vàng cám, mỏ diêm tiêu, lưu huỳnh... Về
               ngày, quan quân cố thủ, rồi giặc phải bỏ        thủy sản: con hỏa, hỏa ngư, con giao , con
                                                                                                    1
               trốn.  Tuy  chưa  đến  tận  châu  huyện,  mà    lươn, và loài cá anh vũ ở xã Thanh Tương,
               oai  quyền  của  triều  đình  cũng  đáng  gọi   châu Chiêm Hóa; giống tôm núi ở xã An
               là  tráng  quan”.  Về  văn  hoá  giáo  dục  và   Phú gọi là “mỏ tôm”; cá trê, cá chép. Về
               chức  quan:  “Cũng  có  trường  học  để  mở     đặc điểm của rừng: “mùa xuân hoa đua
               rộng kiến văn ở xã Duyên La tại phía nam        nở, ong bay khắp nơi; mùa thu rừng cây
               tỉnh thành...”. Về chức quan: Ty Bố chính       râm ran tiếng ve ngâm”. Về muông thú:

               coi việc tài chính thuế khóa. Ty Án sát coi     Chim cát liễu, họa mi, chim công, chim trả,
               việc hình án ngục tụng. Quan Lãnh binh          gà lông gấm, chim hót trăm giọng, chim
               coi  việc  quân  sự.  Về  giáo  chức:  có  quan   cuốc, chó quý, hươu nai, bò, dê, lừa, vượn,
               Giáo thụ giữ việc giáo dục đào tạo. Tuyên       gấu... Về thảo mộc có nhiều loài gỗ quý:
               Quang chưa có quan Học chính ở các cấp.         Ngọc tùng, ba la, vàng tâm, khổ luyện, cây
               Thời Thiệu Trị (1841-1847) mới đặt quan         thọ, cây đỗ, cây tùng, cây chu; gỗ nam, gỗ
               Giáo thụ ở phủ Yên Bình. Kỳ kiểm tra học        táu, gỗ đinh, gỗ sến; cây trâu nằm có hình

               sinh  của  tỉnh  vào  mùa  hạ  và  mùa  đông    thù rất lạ thớ gỗ thô, có mùi thơm, mọc ở
               do quan Đốc học tỉnh Sơn Tây kiêm làm...        núi Ngọc Mạo, nơi khác không có; cây trúc
               Triều đình lại còn đặt ra nhà học, định số      hóa long, trúc hoa văn, cây dược liệu như
               học sinh, khiến cho người ta xem đấy mà         hà thủ ô, quả kim anh, sa nhân, lê thơm,
               tự hào vươn lên. Năm Tự Đức thứ 5 (1852)        lan tố tâm, cây dó, cây cát, hoàng thảo, tam
               quy định các tỉnh ở biên giới mỗi tỉnh đặt      thất... Những sản vật của núi rừng nhiều
               ba  viên  học  sinh,  cấp  cho  lương  tháng,   không thể kể xiết. Nói về sự quái dị thì có
               do quan Giáo thụ cho học tập, hằng năm          thể kể loại ma cà rồng... Về cổ tích thì có

               vào bốn tháng giữa của bốn quý hội đồng         ải Hoang Loan. Về tập quán sản xuất: dân
               khảo hạch. Về nơi tế lễ: “Đàn Tiên Nông,        dựa vào núi mà làm nương, bám lưng núi
               Văn  Miếu,  miếu  Hội  Đồng,  miếu  Thành       mà làm nhà ở, cày cấy, tưới ruộng nghiêng
               Hoàng, đàn Xã Tắc, đàn Sơn Xuyên, đàn           bánh xe cọn nước bờ khe, tháng 2, tháng
               Ân Điển...”. Về binh lính, đinh điền bài ký     3 gieo mạ; tháng 4, tháng 5 đem cấy; tháng
               ghi tỉ mỉ về luật lệ và chính sách đến từng     8, tháng 9 thu hoạch; đào quặng mỏ; một

               nơi. Về giao thương: “Cửa khẩu trên sông        bộ phận dân đốt rừng và chỉa lỗ, mùa hạ
               có  Tam  Kỳ,  Phù  Hiên...  Tuyên  Quang  là    gieo  đến  mùa  thu  thì  thu  hoạch...  Nếu
               nơi xe thuyền tụ tập, nơi các nhà buôn lại      nương rẫy hơi bạc màu, họ bỏ rẫy đốt chỗ
               qua...”. Về đền chùa được nhắc tới như: “...    khác. Về chăn nuôi: Bò, lợn thả gầm sàn.
               miếu Quan Công, đền Cao Vương, động             Về sinh hoạt: Lấy ống bương để nấu cơm,
               Hương  Nham,  chùa  Tuyên  Sơn,  chùa           dùng nồi gỗ để nấu nước canh...; sáng đeo



                   1. Theo dịch giả: Giao có thể là thuồng luồng (trăn nước).
   1086   1087   1088   1089   1090   1091   1092   1093   1094   1095   1096