Page 1089 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 1089
1089
Phêìn thûá nùm: VÙN HOÁA
Một tấm lòng thiện phả Phép tế lễ ở bản Minh Cầm xư a là một
Có công đức phải ghi lại truyền thuyết nhắc lại sự hình thành dân
Để dạy bảo người đời sau tộc và tài đức, công lao của ba vị t ướng
Cúi soi vào tấm gương này. thời đại Hùng Duệ Vương là Sơn Thánh và
Dịch thơ: hai anh em Cao Sơn, Quý Minh; đặc biệt là
Chỉ phiến đá kia sự xuất hiện kỳ dị của hai ngư ời anh hùng
Bền vững không dời Cao Sơn và Quý Minh. Hai vị đã thuận
Hiếu tâm chẳng đổi lòng vua, hợp ý dân, đánh tan giặc ngoại
Nhìn qua như thấy xâm đư ợc vua ban ấp ở bản Minh Cầm, đã
Một tấm lòng vàng giúp nhân dân sống yên lành, hạnh phúc
Có công ắt ghi bằng nghĩa cử cao đẹp: ban phát hết của
Để dạy đời sau cải cho mọi người rồi hoá. Câu chuyện vận
Nơi này gương tỏ. dụng khéo léo các yếu tố hoang đ ường kỳ
Cả hai bài thơ đều ca ngợi tấm lòng ảo, những quan niệm về địa linh nhân kiệt,
cao cả, đức hy sinh vì hạnh phúc cho mọi kết hợp với các chứng tích lịch sử tạo cho
người của các hiền nữ. Các từ: hiếu, tâm, truyện kể thêm sinh động.
thục, thiện gợi ra vẻ đẹp về đạo lý và tấm Phép tế lễ ở bản Minh Cầm xư a là một
lòng từ bi bác ái của con người chốn thiền văn bản chữ Hán không chỉ là tư liệu có
tự. Các bài thơ thiền, được viết theo lối cổ tính chất lịch sử mà còn có ý nghĩa về văn
phong của thơ ca trung đại. hoá, văn học.
8. Nguyễn Bính và thần phả Phép 9. Ngọc phả đình Sở xã Thọ Vực (壽
tế lễ ở bản Minh Cầm xưa (故昔鳴琴庄 域社亭所玉譜)
祀用) Ngọc phả đình Sở xã Thọ Vực có nội
Nguyễn Bính là nhà biên khảo thần dung gần gũi với thần phả Phép tế lễ ở bản
phả, thần tích, ngọc phả của Việt Nam, Minh Cầm xưa, được soạn từ thế kỷ XVIII,
sống vào thế kỷ XVI, hiện chưa xác định qua nhiều giai đoạn lịch sử được nhân dân
rõ năm sinh năm mất và nguyên quán. vận dụng theo đặc điểm lịch sử, địa lý và
Nhưng căn cứ vào các tài liệu ở Viện Hán văn hoá, phong tục của địa phương mình,
Nôm và các địa phương, chúng ta biết sao chép lại thành dị bản. Mặc dù địa danh,
được ông có trên hai mươi bản thần phả địa giới trong tiến trình lịch sử có nhiều
ghi chép về công đức của các danh thần, thay đổi, nhưng hồn cốt truyền thuyết về
chưa kể các thần tích, thần phả, ngọc phả thời đại Hùng Vương vẫn trường tồn với
khác ở các địa phương ghi chép có tên ông. các địa danh thờ phụng.
Tại đình Minh Cầm hiện còn cuốn Truyện đề cập tới nguồn gốc hình
thần phả nhan đề: Cổ tích Minh Cầm trang thành dân tộc; công lao dựng nước và giữ
tự dụng (nghĩa là: Phép tế lễ ở bản Minh Cầm nước của Vua Hùng Tuấn Vương; sự xuất
xư a), do Hàn lâm Viện Đông các Đại học sĩ hiện các nhân tài như: Cao Sơn, U Sơn, Ất
Nguyễn Bính phụng viết (bản chính), niên Sơn. Sự gắn kết giữa vua cha với nhân dân
hiệu Hồng Phúc thứ nhất (1572) và đ ược và những nhân tài đã đánh tan giặc ngoại
Tiền Đại tư ớng quân húy là Tạo biểu vị xâm đem lại nền thái bình cho trăm họ.
linh ứng Đại vư ơng phụng viết (tục biên) Các công thần được vua ban thưởng cho
niên hiệu Vĩnh Hựu thứ sáu (1740). Thần dựng ấp, lập đình, nhưng đều ban phát