Page 1087 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 1087
1087
Phêìn thûá nùm: VÙN HOÁA
nhân dân quen gọi là đền Hạ. Đền được Trong lần đi đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của
xây dựng từ thời Hậu Lê (năm 1738). Nông Văn Vân, Tổng đốc Lê Văn Đức đã
Tại đền, ngoài các di sản vật thể, đáng làm lễ cầu đảo ở đền Thượng và đền Hạ.
chú ý là 20 bản sắc phong, từ triều Lê đến Dẹp loạn xong, nhà vua ban cấp sắc phong
triều Nguyễn, phong cho hai nàng công cho hai ngôi đền và dùng các mỹ tự cao
chúa Phương Dung và Ngọc Lân với quý nhất phong tặng cho các nương thần.
những mỹ tự cao quý nhất. Chẳng hạn, Điều làm nên vị trí thiêng liêng của
sắc phong của Vua Cảnh Hưng năm thứ đền Hạ, đáng chú ý là bài từ đền Hạ.
4 (1743) cho đền Thượng: “Sắc ban cho Nguyên văn chữ Hán như sau:
Đệ Nhị Lân Ngọc Nữ Thủy Tinh Công 瀘 江 在 其 前
Chúa: Phẩm hạnh của nàng quý như ngọc 羅 山 在 其 後
Quỳnh Dao, phong tư thơm ngát như hoa 巍 峨 千 古 廟
lan hoa huệ, thuần vững vàng chân chính 國 祚 在 民 心
lớn lao mẫu mực; gương sáng băng hồ tốt Phiên âm:
đẹp; ngầm giúp vận lớn như đuốc ngọc âu Lô giang tại kỳ tiền
vàng hiển linh, tỏ rõ linh ứng thần công. La Sơn tại kỳ hậu
Theo nghi thức nâng cao điển lễ. Nhân dịp Nguy nga thiên cổ miếu
vua mới lên ngôi, trông coi chính phủ, có Quốc tộ tại dân tâm.
lễ đăng trật, thuận ý gia phong thêm ba Dịch nghĩa:
mỹ tự là: Đệ Nhị Lân Ngọc Nữ Thuỷ Tinh, Sông Lô ở trước mặt
Đoan Trang, Thuận Chính, Trinh Thục Núi Là ở sau lưng
Công Chúa. Ngôi đền đứng sừng sững ngàn năm
Triều vua Cảnh Hưng năm thứ tư, ngày Vận nước ở trong lòng dân.
26-7”. Dịch thơ:
Hay sắc phong của Vua Thành Thái Phía trước là dòng sông Lô
năm thứ hai (1890) cho đền Hạ: “Sắc ban Phía sau là dãy núi Là tôn nghiêm
cho vị Tôn thần: Hiệp Thuận phu nhân, Ngàn năm sừng sững ngôi đền
xưa đã phong tặng là: “Trinh Ý Minh Khiết, Lòng dân ôm mãi nước non trong mình.
Tĩnh Quyên Nhàn Uyển Dực Bảo Trung Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp hài hòa sơn
Hưng”, giúp nước trợ dân, tỏ rõ linh ứng, thủy, bền vững linh thiêng của ngôi đền
từ triều Vua Tự Đức, các quan Bộ Lễ đã và tầm vóc lớn lao của nhân dân với vận
dâng biểu lên. Nay thuận theo nghiệp lớn, nước và lịch sử.
nhớ tới ơn sâu của thần giúp đỡ từ trước - Bài Trùng tu bi ký do Tiến sĩ Nguyễn
nên phong thêm là: “Tề Thục Trung Đẳng Văn Bân soạn và tú tài Trần Văn Tố ghi vào
Thần”, cho phép xã Ỷ La, huyện Hàm Yên, năm Canh Thân (1920), lược thuật về thần
tỉnh Tuyên Quang được phụng thờ như tích, địa thế đền Hiệp Thuận và những
cũ. Thần sẽ giúp đỡ và chở che cho muôn bước thăng trầm của ngôi đền qua những
dân của ta. cơn binh lửa và quá trình nhân dân tham
Triều Vua Thành Thái năm thứ hai, ngày gia trùng tu xây dựng.
20- 2”.
Các sắc phong đều ca ngợi phẩm chất 7. Văn bia đền Thượng
cao quý và sức mạnh linh thiêng của các Tại đền Thượng (còn gọi là chùa Sâm
nương thần phù trợ cho dân, cho nước. Sơn, đền Chàng Đà) thuộc xã Chàng Đà,