Page 1080 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 1080
1080 ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG
lịch sử và vị trí linh thiêng, cao đẹp của nơi Nguyên văn chữ Hán:
thờ vọng, giữa đạo và đời hòa quyện với 洞 幽 而 古
nhau. Lời thơ cô đọng, gần gũi với đồng 巖 瘦 而 香
dao, gợi nên bức tranh hài hòa giữa thiên 創 寺 刻 石
nhiên và con người, với đức tin, đạo lý và 地 久 天 長
lịch sử bằng cảm hứng tự hào, lạc quan Phiên âm:
trước thời đại. Động u nhi cổ
Nham sấu nhi hương
2. Ngô Hoành (Trinh Súc) và tác Sáng tự khắc thạch
phẩm Hương Nghiêm tự bi ký Địa cửu thiên trường.
Phía nam xã An Khang, huyện Yên Dịch nghĩa:
Sơn, tỉnh Tuyên Quang có chùa Hương Động sâu mà (có vẻ) cổ xưa
Nghiêm hay còn gọi là Hương Nham, tục Trái núi dáng nhỏ mà lại có hương
gọi là chùa Hang, xây dựng từ thế kỷ XVI. thơm bay
Chùa có một tấm bi ký chữ Hán do Tiến (Nơi đó) xây dựng chùa và tạc bia đá
sĩ Ngô Hoành, hiệu là Trinh Súc soạn, (Để cho) muôn thuở (cùng với) trời đất.
gồm một bài ký và một bài minh với tên Dịch thơ:
họ những người làm công đức ở xã Thúc Động sâu in dấu tích xưa
Thủy và mười ba huyện trong nước, cách Núi thanh thanh dáng, hương đưa ngạt ngào
đây trên 470 năm. Theo tài liệu Các nhà Dựng chùa bia tạc năm nào
khoa bảng Việt Nam, Ngô Hoành sống ở Đất trời bền vững biết bao tháng ngày.
thời Lê, đỗ Tiến sĩ.
Văn bia cho thấy nơi thờ vọng có cảnh 3. Nguyễn Hàng và những bài phú
trí linh thiêng, hài hòa sơn thủy và hình Nôm về Tuyên Quang
bóng cuộc sống sầm uất một thời với Nguyễn Hàng là một tác gia lớn của
những sinh hoạt văn hoá tâm linh gần nền văn học trung đại Việt Nam, nhưng
500 năm trước, ở phía nam tỉnh lỵ Tuyên chưa rõ năm sinh và mất của ông. Qua
Quang: “Dòng Long Vị như dải lụa trắng các tài liệu của Lê Quý Đôn ta biết được
lượn vòng trước động. Phía sau động là khoảng thời gian ông sống và sáng tác:
đường cái quan, ngựa xe như nước. Phía Nguyễn Hàng đậu Hương tiến, niên hiệu
tây động, nha môn tòa rộng dãy dài. Trong Hồng Thuận (khoảng 1509-1516), triều Lê
chùa khói hương nghi ngút, đó là cung Tương Dực, sau đó theo học ở Quốc tử
Phạm Vương vậy! Trước cung tiền đường, giám. Sắp thi Hội thì có sự cố Mạc Đăng
trùng tu mái ngói đỏ tươi, có nơi thắp Dung cướp ngôi vua Lê, lập ra nhà Mạc.
hương và tam quan. Cứ đến ngày rằm và Bỏ thi, không cộng tác với “ngụy triều”, vị
mùng một, tín đồ thập phương nối gót cầu nho sĩ này lui về ở ẩn tại làng Đại Đồng,
khấn, tăng ni cúi đầu về phương nam ba phủ Yên Bình (Tuyên Quang), lấy hiệu là
lần vái lạy. Những khi trời đất không hòa Nại Hiên. Nguyễn Hàng sống và sáng tác
thuận, cầu nắng thì được trời quang tạnh, ở xứ Tuyên cho đến cuối đời, khi già yếu
khấn mưa thì mưa trải khắp nơi. Chùa rất về mất ở quê cũ tại làng Xuân Lũng, huyện
linh ứng, không thể ngờ được!”. Người Sơn Vi, phủ Lâm Thao (Phú Thọ). Theo ước
lập bia còn ghi lại cảm xúc của mình bằng đoán, ông sống trong khoảng 1490 - 1590,
một bài minh chân thực. chắc hẳn các bài phú và tập Thiên Nam vân