Page 1078 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 1078

1078    ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG



                   -  Thi,  từ,  minh  đều  là  thơ,  tác  phẩm   III. TÁC GIA Và TÁC PHẩM TIêu BIểu
               được  ghi  trong  các  thần  phả  hoặc  khắc        1. Lý Thừa Ân với Văn bia chùa Bảo
               vào văn bia, nội ngoại thất các đình, miếu      Ninh Sùng phúc (保 寧 崇 福 寺 碑)
               (ngọc phả đình Sở xã Thọ Vực, sấm truyền
               chùa An Vinh...); có tác phẩm nằm ở phần            Chiêm Hóa là huyện nằm ở phía đông

               kết  sau  mỗi  bài  bi  ký  văn  xuôi  (văn  bia   bắc  tỉnh  Tuyên  Quang.  Trong  các  di  sản
               chùa Bảo Ninh Sùng Phúc, văn bia chùa           độc đáo còn lại trên mảnh đất này bài văn
               Hương Nghiêm...).                               bia bằng chữ Hán ra đời cách đây hơn 900
                   - Câu đối: Tiêu biểu có câu đối thành       năm (1107- 2014), nhan đề Bảo Ninh Sùng
               Tuyên, câu đối chùa An Vinh, câu đối đình       Phúc  tự  bi  (Văn  bia  chùa  Bảo  Ninh  Sùng

               Hồng Thái, câu đối đền Bắc Mục...               Phúc). Có thể xem đây là bảo vật văn hiến
                   - Phú: Ba bài phú của Nguyễn Hàng đã        của  Tuyên  Quang,  giúp  thế  hệ  hậu  sinh
               ra đời ở Tuyên Quang là: Đại Đồng phong         hiểu rõ hơn về tâm hồn, tư tưởng của cha
                                                               ông trong sự nghiệp gìn giữ nền thái bình
               cảnh phú, Tịch cư ninh thể phú, Tam Ngung       muôn thuở. Ngoài giá trị lịch sử, đây còn
               động phú.                                       là một di sản văn học quý.

                   - Truyện ngắn: Do Nguyễn Hàng sáng              Văn  bia  đã  được  Đỗ  Văn  Hỷ  dịch;
               tác  (39  truyện),  bao  gồm  nhiều  chủ  đề    Thạch Can, Văn Tân hiệu đính. Tác giả văn
               khác nhau, tập trung trong tập sách Thiên       bia là Lý Thừa Ân, quê quán chưa rõ, sống
               Nam vân lục liệt truyện. Trong đó có một số     vào khoảng cuối thế kỷ XI đầu thế kỷ XII,
               tác phẩm tiêu biểu như: Truyện Hà Ô Lôi,        làm quan  đến chức Triều  thỉnh đại phu,
               Truyện Trưng Nữ Vương, Truyện trầu cau...       Đông thượng cáp môn hậu, Thượng thư

                   -  Sắc  phong:  Nhiều  đình,  chùa,  đền,   viên  ngoại  lang.  Văn  bia  này  do  tác  giả
               miếu ở Tuyên Quang được ban tặng sắc            soạn với sự chỉ đạo của quan Thái phó họ
               phong;  tiêu  biểu  là  sắc  phong  đền  Hiệp   Hà châu Vị Long.
               Thuận, đền Thượng, đền Cảnh Sanh, đình              Nội  dung  văn  bia  viết  về  quan  Thái

               Minh  Cầm,...  của  các  vua  triều  Lê  và     phó,  về  công  đức  của  dòng  tộc  có  mối
               triều Nguyễn.                                   quan hệ mật thiết với vương triều nhà Lý
                   - Đề từ: Gồm những văn tự chữ Hán          và công việc kiến thiết văn hoá của vị Thái
               được  ghi  khắc  ở  đền  Ngọc  Hội  (Chiêm      phó này. Nhan đề Bảo Ninh Sùng Phúc tự
               Hóa), đền Thác Cái, đền Bắc Mục (Hàm            bi,  ngoài  việc  định  danh  ngôi  chùa  còn
               Yên),  đền  Thượng,  đền  Hạ,  đền  Cảnh        tàng  ẩn  trong  bốn  chữ:  Bảo  Ninh  Sùng

               Sanh, đền Quang Kiều, đền Ỷ La (thành           Phúc (保寧崇福), ý nghĩa sâu xa: Giữ yên
               phố  Tuyên  Quang),  đình  Minh  Cầm            vận nước, hoặc có thể hiểu: Gìn giữ yên
               (Yên Sơn), đình Sở xã Thọ Vực (nay là xã        bình cho phúc lớn cùng đạo lý và nghĩa vụ
               Hồng Lạc - Sơn Dương)... Các đề từ ghi          với Tổ quốc, với vua cha. Mở đầu bài văn

               chép tên đình, miếu, danh lam, hoặc niên        giới thiệu trọng trách và quyền lợi của Hà
               đại như Hiệp Thuận linh từ, Thượng Tự           Hưng Tông: “Quan coi châu Vị Long, tước
               linh từ, An Vinh thiền tự; có khi là những      Phó  kỳ  lang,  Đô  tri  tả  vũ  đệ  Đại  tướng
               thành ngữ như: Phối thiên kỳ trạch (Ân          quân, kim tử quang lộc đại phu, kiêm hiệu
               trạch  nhờ  trời),  Hộ  quốc  tý  dân  (Giúp    Thái  phó,  đồng  trung  thư  môn  hạ  bình
               nước trợ dân), Vạn cổ sơn hà (Núi sông          chương  sự,  kiêm  quản  nội  khuyến  nông

               muôn thuở)...                                   sự, thượng trụ quốc; ăn lộc phong ấp ba
   1073   1074   1075   1076   1077   1078   1079   1080   1081   1082   1083