Page 1075 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 1075

1075
                                                                        Phêìn thûá nùm: VÙN HOÁA


               Thần phả đền Ông còn lược thuật tội ác          phong tặng một mỹ tự là “Quang Nhuận”.
               của  quân  xâm  lược  phương  Bắc:  “Đến        Khi quan quân đánh dẹp thổ phỉ ở Tuyên
               triều vua Chiêu Thống năm Mậu Thân giặc         Quang,  đã  tiến  hành  cầu  đảo,  tỏ  rõ  linh
               Thanh vào cướp phá trấn Tuyên Quang,            ứng, khiến cho bọn phỉ bị dẹp tan, vùng
               đền miếu bị phá hủy, nhà cửa dân lành xứ        phên giậu được thái bình...”.
               Mục bị thiêu đốt, giặc dữ giết chồng hiếp

               vợ,  bắt  người  đi  phu  dịch,  trăm  họ  hao      2. Về đạo nghĩa ở đời
               tổn,  muôn  nhà  tan  hoang,  người  người          Các  bi  ký,  thần  phả,  thi  từ,  câu  đối
               thù hận... Đến triều Vua Thành Thái, năm        hay nhắc đến mối quan hệ vua - dân với
               Đinh Dậu giặc Cờ đen lại kéo vào Vũ Miếu        giang  san,  thể  hiện  cách  nhìn  của  người
               cướp  bóc  mọi  đồ  tế  khí  bằng  đồng,  bắt   xưa về một dân tộc thống nhất, trong đó
               dân lành ra ghềnh đá hỏa thiêu, trầm hà,        nhân dân là lực lượng quyết định sự sống
               chém giết. Đền miếu hoang tàn...”. Trong        còn của quốc gia dân tộc. Trong văn bia

               bài Trùng tu bi ký ở đền Hiệp Thuận cũng        chùa  Bảo  Ninh  Sùng  Phúc,  Lý  Thừa Ân
               tái  hiện  cảnh  loạn  lạc,  đền  miếu  bị  phá   ca ngợi mối quan hệ mật thiết giữa triều
               hủy  và  những  di  sản  bị  mất  mát;  nhân    đình với tộc họ Hà và các vị thủ lĩnh vùng
               dân xứ Tuyên phải phục hồi nơi thờ vọng         phên giậu của đất nước: Năm lên 9 tuổi
               từ  chốn  đổ  nát:  “...  Khoảng  năm  Đồng     (1077), Hà công được nhà vua vời về triều

               Khánh (1886-1888) gặp nạn binh đao, ngôi        để “kết bạn em vua”. Năm Hà công lên 10
               đền biến thành tro tàn, bao nhiêu đạo sắc       tuổi, nhà vua cho đón về triều để “gang
               phong  của  các  triều  đại,  cùng  ngọc  phả   tấc gần gũi mặt rồng” rồi cho kết duyên
               của  đền  đều  không  còn  một  mảnh  giấy,     với công chúa và phong cho chức Tả đại
               khiến những người muốn khảo cứu quá             liêu ban. Khi Hà công 14 tuổi (1082) “vua
               khứ xiết bao cảm khái! Khi ấy cư dân ở          tiễn đưa công chúa về nhà chồng tại bản
               đây rước tượng thần vào nơi khô ráo, sạch       châu”,  trong  quang  cảnh:  “Nhà  vua  mở

               sẽ. Một đêm bỗng chỗ đó nhô lên thành           tiệc mừng long trọng. Thái phó sắm đủ lễ
               mô đất cao. Quan Phiên đài Nguyễn Thứ           đón dâu. Mọi lễ trang hoàng, dân chúng
               thấy thế cho là điềm lạ, bèn bàn với quan       xem đông như hội; trên ngôi cao quý. Chị
               huyện doãn Nguyễn Huy Côn, xây thành            em phù đỡ như mây...”. Việc kết bạn, kết
               lăng tẩm, dân xã phụng thờ, lập thành một       giao huynh đệ, kết tình phụ tử giữa nhà
               ngôi miếu riêng. Nguyên ngôi đền đổ đã          vua với dân nói lên vẻ đẹp tinh thần của

               nát mất, dân phố xung quanh bèn dựng            cha ông trong quá khứ; mặt khác, nói lên
               lên  một  ngôi  đền  khác  ngay  bên  ngoài     sách lược giữ nước của vương triều nhà Lý.
               khu đất ấy...” . Bản sắc phong đền Thượng       Điều đó được đúc kết trong câu thơ “vận
                             1
               cũng nhắc đến tai ương thổ phỉ và sự linh       nước ở lòng dân” khắc ghi ở đền Hạ. Câu
               thiêng của nương thần đã đem lại bình an:       đối ở chùa An Vinh sau này càng chứng
               “Sắc phong cho vị tôn thần: Đệ Nhị Lân          minh rõ nét:
               Ngọc Nữ Thủy Tinh có công giúp nước trợ             Nước nhà non sông bền vững mãi

               dân, tỏ rõ công đức. Trước đây từng được            Đạo Phật vô biên tháng ngày dài.


                   1. Bản dịch của Viện Hán Nôm. Theo PGS. Trần Mạnh Tiến, có thể tác giả văn bia trùng tu năm
               Canh Thân (1920) bị lầm lẫn sự kiện cuộc khởi nghĩa Nông Văn Vân (1833) triều vua Minh Mệnh với
               triều vua Đồng Khánh.
   1070   1071   1072   1073   1074   1075   1076   1077   1078   1079   1080