Page 88 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 88
giúp tỉnh chỉ đạo tốt hơn việc quản lý, cân đối thu chi ngân sách, chống tham ô
lãnh phí. Về cơ bản, đã đảm bảo được vấn đề bình ổn giá cả, không để xảy ra
1
những đột biến lớn về giá (nhất là giá gạo, vải) do đó đã góp phần cải thiện đời
sống nhân dân, đặc biệt là nông dân. Công tác tín dụng đã hướng vào phục vụ
sản xuất, năm 1951-1952 đã cấp vốn cho: nông nghiệp 75.680.000 đồng, công
nghệ 15.832.000 đồng, vận tải 4.000.000 đồng, thương mại và mậu dịch
355.040.000 đồng. Chúng ta đã chú ý xây dựng tổ chức Quỹ xã dân Tín dụng,
trực tiếp giúp vốn cho nông dân sản xuất. Năm 1952, toàn tỉnh có 85 quỹ gồm
215.992 kg thóc, quy ra tiền khoảng hơn 50.000.000 đồng.
Thực hiện chỉ thị của Liên khu, cuối tháng 9-1952, Tuyên Quang tiến
hành vận động bài trữ hàng xa xỉ phẩm, coi đây là một nội dung quan trọng
trong xây dựng nền kinh tế kháng chiến.
Khắc phục khó khăn về địa hình, sự oanh tác của địch và tình trạng thiếu
vốn, tỉnh đã cố gắng phát triển giao thông vận tải và bưu điện. Những con đường
trước đây phải phá đi để cản địch và bị máy bay Pháp bắn phá hàng giờ đây
đang cần được tu bổ, mở mang. Năm 1954, nhân dân đã sửa 5 con đường dân
sinh (với tổng chiều dài là 151 km với 309 mét cầu cống). Về phương tiện vận
tải, năm 1952 chỉ có 119 chiếc thuyền, 34 xe ngựa, 35 xe trâu, bò và 160 xe đạp
thồ, đến năm 1954, toàn tỉnh đã có 7 ca nô, 25 ô tô các loại. Cuối năm 1952
ngành bưu điện đã xây dựng được 9 phòng và 5 trạm ở các huyện và một số
điểm quan trọng, đường thư liên tỉnh đã được thiết lập đi Yên Bái, Phú Thọ,
Thái Nguyên, Bắc Cạn, Hà Giang, đường thư nội tỉnh cũng thành lập được 4
tuyến với tổng chiều dài 82 km.
Có sự tác động, giúp đỡ trực tiếp của các cơ quan Trung ương đóng tại địa
phương và sự quan tâm của Tỉnh uỷ, chính quyền các cấp, sự nghiệp văn hoá xã
hội tỉnh nhà đã đạt được những bước tiến vượt bậc.
Tiếp tục khắc phục hậu quả do “chính sách ngu dân” của thực dân Pháp
để lại và đẩy mạnh quá trình nâng cao trình độ dân trí, tỉnh tập trung chỉ đạo
công tác xoá nạn mù chữ (nhất là đối với đồng bào thiểu số và cán bộ, công
nhân viên), mở thêm nhiều loại hình trường, lớp cho phù hợp với nhiệm vụ phổ
cập giáo dục, đồng thời nâng cao trình độ, chất lượng các cấp học. Để phục vụ
cho sự nghiệp giáo dục, năm 1952, tỉnh đã mở 10 lớp đào tạo giáo viên sơ cấp,
giảng viên xung phong và giảng viên dự bị với 178 học viên. Toàn tỉnh mở được
20 lớp xoá mù, củng cố 33 lớp dự bị bổ túc, 1 lớp văn hoá cho cán bộ cấp xã, 4
lớp bổ túc văn hoá tại 4 xí nghiệp, thanh toán nạn mù chữ cho 4.616 người.
Công cuộc xoá nạ mù chữ cho cán bộ cấp xã phát triển mạnh do chúng ta tích
cực đào tạo giáo viên bình dân học vụ. Năm 1954, tỉnh đào tạo được 732 giáo
viên, trong đó ¾ là người miền núi, cung cấp đủ tài liệu cho giáo viên và sách
văn quốc ngữ cho cán bộ xã. Từ năm 1950 đến năm 1952 tỉnh đã đạt được thành
tích lớn: thanh toán xong nạn mù chữ ở 2 huyện Yên Bình và Sơn Dương, 1/3 số
xã của huyện Yên Sơn cùng nhiều thôn xóm ở các huyện. Toàn tỉnh có hơn
1 . Tháng 12-1952: Giá gạo: 350 đ/kg, vải: 2.100đ/mét, muối: 1,650 đ/kg. Tháng 10-1953: Giá gạo: 350đ/kg, vải:
1.400đ/mét, muối: 800đ/kg.
88