Page 83 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 83
trong 6 tháng đầu năm 1954, công an tỉnh đã lập xong hồ sơ sưu tra của 711 tên
ở các tổ chức phản động để đưa đi cải tạo, lập hồ sơ của hầu hết các tên địa chủ
phản động, gián điệp để xử lý.
Phối hợp với Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ty Công an đã chú ý làm tốt công tác
bảo vệ nội bộ. Năm 1954 ta đã bắt 6 tên tay sai chuyên cung cấp tin cho Pháp.
Qua đó, an ninh cơ sở, xí nghiệp, cơ quan được giữ vững và củng cố.
Cũng thời gian này, một số tổ nhóm phản động trước đây đã tập hợp lại
trong tổ chức "Việt - Pháp - Trung Liên hiệp hội" do bọn Quốc dân đảng cầm
đầu, bắt đầu hoạt động ở 2 xã Hồng Thái, Đà Vị (Na Hang) dưới sự chỉ huy của
phỉ ở Cao Bằng. Mục đích của chúng là dùng vũ trang cướp chính quyền từ xã
đến huyện, thành lập xứ Tày tự trị ở Na Hang, Bắc Mê (Hà Giang). Do địa hình
hiểm trở, cách xa trung tâm của tỉnh, trình độ dân trí thấp, lạc hậu...nên địa bàn
hoạt động của tổ chức này lan nhanh đến các xã Vĩnh Yên, Yên Viên, Côn Lôn,
Thượng Nông...Trước tình hình đó, quán triệt chủ trương của Liên khu uỷ, Tỉnh
uỷ Tuyên Quang ra chỉ thị "dập tắt tổ chức Việt - Pháp - Trung Liên hiệp hội"".
Tháng 7 - 1953 đoàn công tác tiễu phỉ với 12 cán bộc ông an, 1 trung đội bộ đội
tỉnh, quân du kích huyện...đã lên đường để ổn định tình hình chính trị ở vùng
giáp ranh 4 tỉnh (Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc Cạn, Cao Bằng).
Thắng lợi của quân và dân trên mặt trận an ninh đã trực tiếp góp phần bảo
vệ an toàn cơ sở Đảng, chính quyền và làm thất bại âm mưu của địch hòng tấn
công phá hoại từ bên trong địa bàn tỉnh.
III- SỰ ĐỔI THAY TRÊN QUÊ HƯƠNG CÁCH MẠNG
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ II, các Hội nghị Trung ương
lần thứ nhất (3- 1951), lần thứ 2 (10 - 1951) và lần thứ ba (4 - 1952) đã vạch ra
những chủ trương, biện pháp về đẩy mạnh cuộc đấu tranh ở vùng sau lưng địch,
về xây dựng lực lượng vũ trang và xây dựng Đảng nhằm đảm bảo cho các yêu
cầu mới của cuộc kháng chiến.
Vận dụng sáng tạo đường lối của Trung ương trong điều kiện riêng của
tỉnh miền núi còn nhiều thiếu thốn về kinh tế, lạc hậu về văn hoá, nhưng có
thuận lợi hơn các địa phương khác trong nước là không bị địch chiếm đóng,
Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Tuyên Quang đã tích cực dồn sức cho công
cuộc xây dựng nền kinh tế kháng chiến và nền văn hoá mới.
Căn cứ vào từng thời điểm, Tỉnh uỷ đã đề ra những nhiệm vụ mang tính
chất cấp bách, trước mắt phải tập trung giải quyết như: phát động quần chúng
giảm tô, công trái, huy động nhân, vật lực cho các chiến dịch, song Tỉnh uỷ cũng
xác định phát triển sản xuất, tiết kiệm vẫn là công tác trung tâm, xuyên suốt của
Đảng bộ và nhân dân Tuyên Quang. Tỉnh uỷ chủ trương: Tuyên Quang là một
tỉnh thuộc vùng tự do, nên đặt công tác kinh tế tài chính lên hàng đầu, còn mọi
công tác song song tiến hành.
Sản xuất nông nghiệp được xác định là mặt trận chính trong xây dựng
kinh tế thời kỳ này. Nhằm củng cố quan hệ sản xuất trong nông nghiệp. Đảng bộ
quan tâm xây dựng các tổ chức hợp công, đổi công (mầm mống quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa) phù hợp với tính chất, trình độ lực lượng sản xuất, đưa
83