Page 87 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 87
khai thác nhựa trám, mộc nhĩ, nấm hương, mây, móc...Nhằm gây nguồn và bảo
vệ gỗ quý, tỉnh đã bước đầu tổ chức các rừng thí nghiệm với một số loại: phi
1
lao, tếch, lim xanh...Mặc dù tác động tốt đến sinh hoạt của nhân dân , song tồn
tại lớn của việc khai thác lâm thổ sản là rất bừa bãi, chỉ chú ý giải quyết trước
mắt, chưa có sự điều tra quy hoạch, tu bổ.
Xây dựng và mở rộng tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, tỉnh chủ trương
"phát triển công nghệ, nhằm thủ công nghiệp gia đình là chính; duy trì và phát
triển các xưởng tiểu thủ công nghệ đã có, chú trọng các nghề vải, chiếu, nông
cụ, gây cơ sở nghề mới mà cần thiết như nghề đồ gốm” . Phục vụ cho sản xuất
2
nông nghiệp và đời sống nhân dân từ nguồn nguyên liệu, tay thợ chủ yếu là
nguồn tại chỗ, các ngành, nghề thủ công thời kỳ này phát triển khá phong phú.
Tính đến tháng 10-1953, Tuyên Quang có 7 tổ cán bông, 8 cơ sở dệt chiếu, 49 lò
đường, 1 lò thuộc da, 3 cơ sở làm bừa, 41 lò rèn dao, cuốc, xẻng...và 2 lò doanh
nghiệp nhà nước sản xuất lưỡi cày, 1 xưởng dệt vải, 2 lò gốm sản xuất bát, chén,
3
nồi, vại...1 lò chế cồn sắn , 4 cơ sở sản xuất giấy cùng 1 lò sản xuất diêm tiêu.
Thực tế phát triển sản xuất cho thấy tiểu công nghệ có phần sa sút (trừ cơ sở lò
gốm và nông cụ) do sự hướng dẫn thu mua kém và chưa tích cực cải tiến kỹ
thuật. Ngược lại, thủ công nghiệp có triển vọng phát triển hơn vì mang tính tự
cung, tự cấp, không gặp khó khăn về nguyên liệu và nhân công.
Bên cạnh kết quả đã đạt được, công tác lãnh đạo sản xuất của tỉnh còn
những tồn tại lớn:
- Nhiều khi chủ trương đề ra không sát với thực tế, không căn cứ vào khả
năng và nhu cầu của nhân dân mà chỉ thuần túy dựa vào kế hoạch của trên.
- Việc bố trí lực lượng thực hiện chủ trương có lúc không sát.
- Cơ quan canh nông (là cơ quan chịu trách nhiệm giúp tỉnh trong lãnh
đạo, hướng dẫn sản xuất) không được củng cố, kiện toàn kịp thời, chưa chú ý
giải quyết triệt để những khó khăn như giống, nông cụ, mương phai cho nhân
dân.
- Có thời điểm các huyện còn coi nhẹ sản xuất,nặng về công tác trước mắt
như dân công, thuế...chưa thật sự kết hợp hài hòa giữa công tác trung tâm, lâu
dài với nhiệm vụ đột xuất.
- Quán triệt chính sách tài chính của Đảng, Chính phủ, tỉnh đã đẩy mạnh
công tác cân đối thu, chi để đầu tư cho phát triển sản xuất, bình ổn vật giá, củng
cố mạng lưới thương nghiệp. Thuế công thương nghiệp 9 tháng năm 1953 thu
được 192.413.774 đồng, năm 1954 là 551.000.000 đồng. Thuế hàng hóa, sát
sinh, tem, trước bạ, bán lân sản...tuy còn để thất thu lớn, song cũng đóng góp
cho nguồn thu của tỉnh hàng chục triệu đồng. Riêng 9 tháng đầu năm 1953 tổng
thu các loại thuế trên (kể cả thu thêm về niên khóa 1952) đã đạt 60.768.995
đồng. Việc thành lập cơ quan ngân hàng (6-1951) và Ty Tài chính (1952) đã
1 . Năm 1953, co nơi ở Sơn Dơng giải quyết được 1/3 nạn đói nhờ khai thác lâm sản; ở Na Hang gần 1/2 số gia
đình thiếu ăn đã cải thiện được mức sống do thu nhặt sa nhân.
2 . Báo cáo tổng kết công tác năm 1953 của Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Tuyên Quang, số 78/HC ngày
14-12-1953.
3 . Do kỹ thuật nấu cồn khá, có nơi tiêu thụ (quân y), tỉnh cung cấp được một lượng cồn lớn hơn cho tuyền tuyến.
87