Page 86 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 86
phong trào tăng gia tiết kiệm đã trở lên rầm rộ, đạt nhiều kết quả. Riêng 6 tháng
đầu năm, các cơ quan đã thu hoạch được 17.792 kg rau xanh, cấy 58,2 mẫu lúa
chiêm; bắp, vừng, lạc, đỗ...1.662 cây đu đủ, 2.739 cây chuối, 16.429 gốc sắn;
chăn nuôi được 2.589 kg thịt (trị giá 70.000.000 đồng), quy ra gạo và rau bình
quân mỗi cán bộ thu được 2,5 kg gạo/tháng, tự túc được rau ăn 42 ngày trong 6
tháng và tiết kiệm nhân, vật lực trị giá 133.327.504 đồng nhờ sáng kiến cải tiến
lề lối làm việc.
Từ sự nỗ lực, chắt chiu của Đảng bộ và nhân dân Tuyên Quang, sản xuất
nông nghiệp đã đạt được nhiều tiến bộ. Vụ mùa năm 1951, toàn tỉnh cấy được
51.793 mẫu, thu hoạch 36.255.100 kg thóc, năng suất lúa chiêm so với năm
1950 tăng từ 2 tạ đến 2,5 tạ, có nơi tăng từ 3 tạ đến 3,5 tạ/mẫu. Năm 1952, diện
tích vụ chiêm tăng hơn hẳn so với năm 1951 (6.775 mẫu); năm 1953 tăng hơn
1
năm 1952 (5.769 mẫu) . Năm 1954 diện tích cấy chiêm chính vụ và cấy Nam
Ninh tăng 3.350 mẫu so với năm trước; vụ mùa toàn tỉnh có 58.375 mẫu, chủ
trương của tỉnh quyết tâm cấy hết diện tích, tăng năng suất 15%, nhưng do thiên
tai đã mất trắng 5.800 mẫu, số ruộng hoang còn lại trên 1.000 mẫu.
2
Với diện tích 6.500 mẫu ruộng màu , việc phát triển các loại hoa màu góp
một phần đáng kể vào nguồn thi lương thực. Tính đến tháng 6 - 1952 tỉnh đã
trồng được 3.270,5 mẫu sắn, ngô, khoai; nhất là ngô, khoai diện tích các nơi đều
tăng: Chiêm Hoá so với năm 1953 tăng 50%, Hàm Yên tăng 200 mẫu, Yên Sơn
tăng 100 mẫu. Công tác phát triển trồng màu của tỉnh còn hướng vào vận động
3
nhân dân tăng diện tích, năng suất các loại hoa màu "bồi dưỡng" và cây công
nghiệp phục vụ thủ công nghiệp địa phương. Riêng 6 tháng đầu năm 1952,
chúng ta đã trồng được 457,8 mẫu vừng, 404 mẫu đỗ xanh, 348 mẫu đỗ tương,
485 mẫu lạc, 24 mẫu đay, 489 mẫu 5 bông. Phát huy thế mạnh về chăn nuôi, đặc
biệt là chăn nuôi đại gia súc, tỉnh đã vận động nhân dân tận dụng mọi nguồn
thức ăn, triệt để khai thác điều kiện tự nhiên để phát triển đàn gia súc, gia cầm.
Song song với việc phát triển chăn nuôi gia súc là công ác phòng dịch, chống rét
cho đàn gia súc. Đến giữa năm 1952 toàn tỉnh có: 25.574 con trâu, 1.537 con bò,
38.283 con lơn. Do có điều kiện phù hợp, tỉnh chủ trương phát triển nghề nuôi
cá ruộng, ao, hồ. Năm 1953 huyện Hàm Yên đã nuôi ]được 72 mẫu (hơn năm
trước 9 mẫu). Phong trào phát triển mạnh ở Chiêm Hoá, Na Hang. Thực tế cho
thấy đàn gia súc tăng rất nhanh ở những điểm tỉnh trực tiếp chỉ đạo, ví dụ như
Yên Nguyên (Chiêm Hoá) năm 1953 có 963 con trâu, bò, năm 1954 có 1.152
con (tăng 19%); xã Bằng Cốc (Hàm Yên) năm 1953 có 267 con trâu, bò, năm
1954 có 323 con (tăng 21%).
Khai thác nguồn lợi của rừng, tỉnh đã chủ trương vận động nhân dân thu
nhặt lâm thổ sản để cải thiện đời sống (nhất là vào thời kỳ giáp hạt). Riêng năm
1954, chúng ta đã khai thác được 9.885m gỗ, 13.347 ster 476 củi, 15.887 ster
2
664 tre, 1.117 sợi song, 58.357 ster 650 nứa, nâu: 856 kg. Ngoài ra nhân dân còn
1 . Thiếu số liệu của 8 xã thuộc Sơn Dương và Na Hang.
2 . Số liệu thóng kê năm 1951.
3 . Năm 1952 tỉnh đã đề ra chủ trương phát trỉên các loại hoa màu bồi dưỡng như: Mía, lạc, vừng đỗ.
86