Page 91 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 91

Thực hiện phương châm tác chiến của trên là “phát triển chiến tranh du
                     kích lên độ cao”, tỉnh đội tiến hành chấn chỉnh lại lực lượng quân du kích, chống
                     việc coi trọng du kích, hạ thấp vai trò của dân quân. Đến cuối năm 1951, dân
                     quân, du kích phát triển mạnh, tăng 250% so với trước và được chấn chỉnh về tổ
                     chức,  bồi  dưỡng  kỹ  thuật  trinh  sát,  đánh  bom  mìn,  địa  lôi...Sự  lãnh  đạo  của
                     Đảng trong lực lượng này được chú ý, tăng cường hơn. Hầu hết cán bộ xã đội,
                     trung đôi, tiểu đội đều là uỷ viên cấp uỷ hoặc đảng viên. Từ tháng 6-1951, do sai
                     lầm của việc giải tán huyện đội, sự lãnh đạo dân quân, du kích khoán trắng cho
                     tỉnh đội cùng với tư tưởng coi nhẹ vai trò của dân quân, du kích đã làm cho phng
                     trào bị rời rạc, có nơi không hoạt động. Tỉnh uỷ Tuyên Quang đã nhanh chóng
                     phát hiện, khắc phục thiếu sót này, chấn chỉnh các ban xã đội , nâng cao chất
                     lượng của dân quân du kích để làm hậu thuẫn và bảo vệ thắng lợi cuộc phát
                     động giảm tô trong những năm 1953-1954.
                            Thành tích nổi bật của dân quân du kích là công tác phòng gian bảo mật,
                     bảo vệ cầu đường trong  thời gian chiến dịch Điện Biên Phủ. Năm 1954, trong 5
                     huyện (trừ Na Hang) có 1.724 đội viên du kích, trung bình mỗi xã có 1 tiểu đội
                     với biên chế 10 người. Trên địa bàn tỉnh, việc động viên tòng quân, huấn luyện
                     tân binh bổ sung cho bộ đội chủ lực có nhiều hình thức sáng tạo, đạt kết quả tốt,
                                                                                    1
                     trong đó điển hình là việc xây dựng các “Đại đội dự bị”  một hình thức bổ sung
                     quân vừa nhanh vừa tiết kiệm ngân sách.
                            Năm 1952 tỉnh bổ sung cho quân đội được 525 người. Năm 1954 tuyển
                     quân  được  581  người  trong  đó  bổ  sung  cho  lực  lượng  chính  quy  được  349
                     người. Dưới sự lãnh đạo của  Đảng bộ, lực lượng vũ trang  địa phương, phục vụ
                     tiền tuyến.
                            Ngày 14-10-1952, Trung ương mở chiến dịch Tây Bắc giải phóng Nghĩa
                     Lộ,  Mộc  Châu,  Tuần  Châu,  Thuận  Châu,  Sơn  La...Để  cứu  vãn  tình  thế,cuối
                     tháng 10-1952 quân Pháp mở chiến dịch “Lolaine” từ Trung Hà (Sơn Tây) đánh
                     lên Hưng Hoá (Phú Thọ); theo Quốc lộ 2 đánh lên Đoan Hùng. Ba tiểu đoàn lính
                     dù cũng được đổ xuống đay nhằm phá hoại hậu phương ta, chặn đường tiếp tế
                     (chủ yếu là đường 13A) cho tiền tuyến và thu hút chủ lực của ta về.
                            Nhận được tin địch tiến công lên Phú Thọ, tỉnh đã triệu tập Hội nghị Tỉnh
                     uỷ mở rộng, xây dựng kế hoạch tác chiến. Tỉnh uỷ chỉ thị cho tỉnh đội phân tán
                     2/3 bộ đội địa phương xuống các xã, 1/3 tập trung ở những nơi trọng điểm (chủ
                     yếu dọc Quốc lộ 2). Ta bố trí 1 đại đội ở Sơn Dương, 1 đại đội ở hạ huyện Yên
                     Sơn.
                            Tuy nhiện, địch không tiến công theo Quốc lộ 2 như ta dự đoán mà theo
                     đường 31 lên Thác Bà (Minh Phú – Yên Bình), vượt sông Chảy  sang đóng quân
                     tại bến Hiên (Mỹ Lâm – Yên Sơn). Trước tình hình đó, tỉnh khẩn trương chuyển
                     quân sang bảo vệ Nhà máy MK1, H51. Sau khi đốt 1 kho quế của ta và phá hoại




                     1 . Số người chuẩn bị tòng quân được biên chế thành từng tiểu đội, trung đội...tuỳ theo địa dư, khu vực. Đại đội
                     dự bị đợưc tổ chức, huấn luyện tại địa phương, tự túc về lương thực. Sau huấn luyện, được huyện xác nhận và
                     không phải làm các công việc cần vụ ở địa phương để sẵn sàng bổ sung cho chu rlực.


                                                                 91
   86   87   88   89   90   91   92   93   94   95   96