Page 93 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 93

Chính  vì  vậy  công  tác  bảo  vệ, sửa  chữa  cầu  đường là  một  nhiệm  vụ  thường
                     xuyên, cấp bách trong công tác hậu phương. Các tuyến đường ở Tuyên Quang
                     được Trung ương phan loại: đường 13 A ưu tiên loại 1, đường Quốc lộ 2 ưu tiên
                     loại 2, đường Bắc Mục, Chợ Ngọc đến ngã ba Đông Lý ưu tiên loại 3. Trong
                     những năm 1951-1952 các tuyến đường này được tỉnh khôi phục, sửa chữa, đảm
                     bảo xe trung xa đi được. đảm bảo yêu cầu của tiền tuyến, theo chỉ thị của trên
                     tháng 7-1953 Tuyên Quang mở chiến dịch cầu đường huy động 1.021.136 ngày
                     công sửa chữa toàn bộ hệ thống đường dài 168 km. Dưới bom đạn, công nhân
                     cầu phà vãn phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật đảm bảo thông đường, thông
                     phà trong thời gian ngắn nhất, kể cả những lúc cao điểm. Thời gian trực phà rút
                     từ 60 phút xuống còn 30 phút, qua phà từ 30 phút rút xuống còn 8 phút, nhiều
                     khi thuỷ thủ phải làm việc tới 14 giờ liên tục, mức vận chuyển trước đây là 20
                     xe tăng lên 64 xe trong ngày. Tính từ 29-11-1953 đến 7-5-1954 đã có 4.734 xe ô
                     tô từ Thái Nguyên qua phà Bình Ca.

                                   Để bảo vệ giao thông vận tải, tỉnh thành lập 2 đội sửa chữa đường
                     (216 và 217), tỉnh đội thành lập đại đội phòng không,  mỗi huyện thành lập 1
                     ban bảo vệ, các xã có đội bảo vệ từ 10 đến 15 người để tuần tiễu bảo vệ đường,
                     nơi cất dấu ôtô, phát hiện bom nổ chậm. Dọc các tuyến đường, công tác bảo vệ
                     cầu đường được đưa vào các tổ sản xuất, vừa sẵn sàng sửa đường ngay sau khi
                     địch bắn phá, vừa làm biển báo “có máy bay”, cọc tiêu chỉ đường cho xe chạy
                     đêm.
                            Đảm bảo huy động cao độ nhân, vật, tài lực cho cuộc kháng chiến đang
                     bước vào thời điểm quyết định, đầu năm 1953 Tỉnh ủy Tuyên Quang quyết định
                     thành lập Hội đồng cung cấp tiền phương của tỉnh do một đồng chí Thường vụ
                     làm chủ tịch. “Tất cả cho tiền tuyến chiến thắng”, Đảng bộ và nhân dân các dân
                     tộc Tuyên Quang đã dồn hết sức lực, tình cảm của mình cho mặt trận.
                            Dưới sự chỉ đạo của Ban dân công tỉnh, phong trào “đi dân công là yêu
                     nước” diễn ra sôi nổi. Gối đất, nằm sương, lội đèo, các đoàn dân công được biên
                     chế theo tổ chức quân sự nối nhau lên đường ra phía trước. Năm 1953 tỉnh đã
                     huy động 3 đợt dân công với 9.762 người đi phục vụ Chiến dịch Tây Bắc, cả
                     năm huy động 1.021.738 ngày công. Năm 1954 huy động 1.854.360 ngày công.
                     Trong suốt cuộc kháng chiến, chỉ tính riêng việc phục vụ cho các chiến dịch và
                     kiến thiết cầu, đường, phà, Tuyên Quang đã huy động tới 6.519.000 ngày công.
                     Với số dân 13 vạn người, năm 1954 tỉnh đã huy động tới 56.196 lượt người đi
                     dân công (chiếm 43% dân số). Con số đó thể hiện sự cố gắng phi thường, hy
                     sinh lớn lao của nhân dân tỉnh ta đối với kháng chiến, với các mạng.

                            Động  viên  được  sức  mạnh  của  toàn  dân,  riêng  chiến  dịch  Đông  Xuân
                     1953-1954,  Tuyên  Quang  đã  cung  cấp  cho  tiền  phương  6.486.955  kg  gạo,
                     52.770 kg thịt trâu, 914 kg thịt bò, 41.657 kg lợn, 10.890 kg lạc, 11.282 kg đỗ
                     xanh.  Ngoài  ra  tỉnh  còn  cung  cấp  cho  bộ  đội  hàng  trăm  tấn  rau  xanh  và
                     1.881.322 kg gạo cho các chiến dịch làm cầu đường...






                                                                 93
   88   89   90   91   92   93   94   95   96   97   98