Page 90 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 90
được củng cố ở tỉnh, mà còn phát triển mạng ở các xã với các đội văn nghệ quần
chúng. Thành công lớn trong công tác này là chúng ta đã biết bảo vệ, khai thác
truyền thống văn hoá các dân tộc. Năm 1954, tỉnh đã tổ chức thành công liên
hoan văn nghệ 52 xã đã phát động giảm tô. Qua liên hoan đã khai thác được 40
điệu múa hát dân tộc miền ngược và miền xuôi, đặc biệt điệu múa “Nông dân
xúc tép” của đồng bào dân tộc Cao Lan đã được biểu diễn tại Đại hội liên hoan
văn nghệ toàn quốc. Những hoạt động này đã gây cơ sở tốt cho việc động viên
nhân dân tham gia phát triển văn hoá, nghệ thuật, khắc phục tư tưởng coi nhẹ
văn nghệ dân tộc miền núi và những tự ti về vốn văn hoá văn nghệ của đồng bào
dân tộc.
VI- LÀM TRÒN SỨ MỆNH VẺ VANG CỦA TỈNH
HẬU PHƯƠNG VÀ AN TOÀN KHU
Phong trào cách mạng cả nước dồn dập chuyển mạnh vào giai đoạn tổng
phản công. Các cơ quan đầu não kháng chiến đang từng ngày, từng giờ tập
trung cao độ chỉ đạo cuộc kháng chiến, kiến quốc tới thắng lợi cuối cùng. Đòi
hỏi của tiền tuyến về nhân, vật, tài lực ngày càng lớn và cấp bách hơn. Với vị
thế của mình, Tuyên Quang vừa là hậu phương của tiền tuyến vừa là an toàn khu
có các hoạt động trọng đại của Bác Hồ và cơ quan Trung ương. Vinh dự thật lớn
lao nhưng trách nhiệm cũng thật nặng nề. Bằng những nỗ lực phi thường, hy
sinh thầm lặng, Đảng bộ Tuyên Quang đã tập trung lãnh đạo nhân dân thực hiện
tốt trọng trách của mình, góp phần xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc.
Trước hết, Đảng bộ coi việc xây dựng lực lượng vũ trang là một công tác
trọng yếu nhằm đảm bảo hoàn thành việc giữ gìn quê hương, bảo vệ căn cứ cách
mạng và chi viện cho tiền tuyến. Với phương châm “xây dựng bộ đội địa
phương, củng cố, phát triển quân du kích và thực hiện tòng quân xây dựng bộ
đội chủ lực”, Tỉnh uỷ lưu ý các cấp bộ đảng phải trực tiếp bắt tay vào việc xây
dựng lực lượng vũ trang, học tập đường lối chiến tranh và kỹ thuật chiến đấu để
khi cần thiết có thể trực tiếp chỉ huy quân đội, làm tốt việc động viên toàn dân
tham gia xây dựng quân đội.
Hệ thống tổ chức và số lượng bộ đội địa phương thường xuyên được chấn
chỉnh, phù hợp với yêu cầu thực tế của từng giai đoạn cách mạng. Cuối năm
1951 toàn tỉnh có 749 người biên chế thành 4 đại đội và 1 trung đội trợ chiến,
các bộ phận chuyên môn của tỉnh đội được sắp xếp lại. Cuối năm 1953 tỉnh đã
hoàn chỉnh việc biên chế lại lực lượng bộ đội địa phương theo quy định của Liên
khu. Chủ trương của tỉnh lúc này là tập trung lực lượng bộ đội địa phương ở các
huyện về tỉnh đội để tránh tình trạng phân tán, sử dụng quân đội sửa sai chức
năng đồng thời xoá bỏ cấp thôn đội, một cấp trung gian không cần thiết để các
xã đội có điều kiện trực tiếp chỉ huy tới từng tiểu đội ở các thôn xóm, dễ điều
động lực lượng trong tình hình có chiến tranh, Đồng thời, với sự giúp đỡ của
Liên khu, tỉnh tăng công tác chỉnh quân, giáo dục chính trị và rèn luỵên kỹ thuật
tác chiến trong toàn lực lượng. Tnrh uỷ cử các đồng chí Tỉnh uỷ viên trực tiếp
tham gia ban lãnh đạo các đợt chỉnh quân, chỉnh huấn.
90