Page 85 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 85

1
                     1953 cấy được201 mẫu Nam Ninh, 488 mẫu Ba Giăng . Vụ chiêm 1953 - 1954
                     diện  tích  cấy  Nam  Ninh  đã  tăng  lên  nhiều;  huyện  Chiêm  Hoá  diện  tích  cấy
                     chiêm đã được thay thế bằng cấy Nam Ninh; huyện Hàm Yên cấy chiêm có 80
                     mẫu, nhưng cấy Nam Ninh có tới 576 mẫu.
                            Với sự giúp đỡ về kỹ thuật của trường Canh nông, Trại thí nghiệm trồng
                     trọt sông Lô (Bộ Canh nông) đã góp phần quan trọng vào việc phát triển giống
                     lúa mới trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh việc vận động cấy giống lúa mới, tỉnh cố
                     gắng tuyên truyền, chỉ đạo nông dân các vùng sâu, xa trồng thêm các loại cây
                     nông nghiệp, phá thế độc canh, nhờ đó mà đồng bào Dao đã bắt đầu phát triển
                     trồng cây sắn.
                            Công tác thuỷ nông phòng chống hạn khá tốt, đây là một trong những cơ
                     sở quyết đình tăng diện tích và năm suất lúa. Ngoài việc duy trì, phát triển cách
                     làm truyền thống trong thuỷ lợi như: cọn nước, gầu sòng (vụ mà 1954, riêng hạ
                     huyện Sơn Dương đã làm được 616 chiến cọn), những đạp nước, mương phai
                     được chú ý phát triển, sử dụng. Một trong những công trình thuỷ lợi lớn nhất của
                     tỉnh, dân đầu trong việc xây dựng thuỷ lợi toàn Liên khu là mương phai Kim
                            2
                     Thắng , với chiều dài là 8.992 m, tưới cho 545 mẫu chiêm, mương Kim Thắng
                     đã góp phần cứu được 6.472 nhân khẩu của 3 xã An Tường, Kim Thắng, Ỷ La
                     khỏi nạn thiếu đói hàng năm. Trong 3 năm (từ năm 1950 đến năm 1952) chúng
                     ta đã hoàn thành 29 công trình thuỷ lợi lớn, nhỏ, tưới được 2.434 mẫu, đặc biệt
                     là năm 1951, tỉnh đã thực hiện 11 điểm mương phai, tưới cho 2.000 mẫu, tu bổ 6
                     mương nhỏ tưới cho 800 mẫu. Năm 1953, nông dân 4 huyện Chiêm Hoá, Hàm
                     Yên, Yên Sơn, Sơn Dương đã tự động vừa sửa chữa vừa làm mới 361 mương,
                     cọn.
                            Đi đôi với công tác thuỷ nông, phong trào vận động cải tiến kỹ thuật canh
                     tác  được tỉnh  thường  xuyên  khuyến  khích, tạo  điều kiện. Phần  lớn  đồng  bào
                     trong tỉnh quan với kỹ thuật canh tác thô sơ, rất sợ dùng phân trong chăm bón,
                     chúng ta đã kiên nhẫn vượt khó khăn, tích cực tuyên truyền, vận động. Năm
                     1951, sau chiến dịch "làm cỏ, bỏ phân", nhân dân đã cày, bừa nhiều lần hơn mọi
                     năm, làm cỏ ít nhất một lần 2/3 diện tích lúa toàn tỉnh. Một số xã thuộc Yên
                     Bình, Yên Sơn và Sơn Dương đã biết dùng phân xanh, phân mục. Việc gieo mạ
                     thưa, cấy ít nhánh, dùng cào cỏ...ngày càng được thực hiện rộng rãi.
                            Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, phong trào nhân dân thi đua sản xuất,
                     tiết kiệm, mở rộng diện tích dấy lên mạnh mẽ. Điển hình là "phong trào Hoàng
                                                               3
                     Hanh", "tổ đổi công Trịnh Xuân Bái" . Tinh thần tăng gia sản xuất còn lan rộng
                     trong các cơ quan Nhà nước và mọi tầng lớp nhân dân. Vụ mùa năm 1952, hàng
                     trăm con em học sinh cùng các địa biểu đang họp Hội nghị Hội đồng nhân dân
                     tỉnh giữa năm đã kịp thời ra đồng khắc phục nạn sâu bệnh phá hoại mùa màng.
                     Năm 1951, phong trào đã lan rộng đến hầu hết các đơn vị, sang đầu năm 1952



                     1  . Số liệu của riêng 3 huyện Yên Sơn, Sơn Dương, Hàm Yên.
                     2  . Công trình thuỷ nông Kim Thắng hoàn thành năm 1951.
                     3  . Anh hùng lao động Hoàng Hanh và Chiến sĩ thi đua Trịnh Xuân Bái là những người tiêu biểu trong sản xuất
                     nông nghiệp sau Cách mạng Tháng Tám.


                                                                 85
   80   81   82   83   84   85   86   87   88   89   90