Page 89 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 89
80.000 người đã thoát nạn mù chữ, ở các trường phổ thông phát triển mạnh mẽ
với chất lượng giáo dục tốt. Năm 1952, toàn tỉnh có 2 trường phổ thông cấp II
với 24 giáo viên, 1.016 học sinh và 94 trường phổ thông cấp I với 119 giáo viên,
7.776 học sinh, trong đó có 2.758 học sinh là người dân tộc thiểu số. Ngoài ra,
tỉnh còn có 675 học sinh cấp I và II theo học các trường tư thục. Ở địa bà nông
thôn, các lớp cấp I được nhân rộng. Một số địa phương đã mở được trường cấp
II như xã An Lạc (Chiêm Hoá), Chân Sơn (Yên Sơn). Trường cấp III đã có
được 1 lớp 8 với 57 học sinh. Tính đến năm 1954, toàn tỉnh đã có 110 trường
phổ thông gồm 403 lớp, 264 giáo viên, 10.716 học sinh (so với thời Pháp, Nhật,
tăng 17 lần). Bên cạnh vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục, tỉnh còn chú trọng
bồi dưỡng chính trị cho giáo viên. Năm 1954, các lớp họp tập chính trị được tổ
chức. Tỉnh tăng cường mở rộng công tác thực tập sư phạm, trao đổi kinh nghiệm
giảng dạy giữa giáo viên các trường. Nội dung các chủ trương, chính sách lớn
của Đảng và Chính phủ được đưa vào chương trình giảng dạy trong nhà trường.
Công tác đào tạo giáo viên và học sinh miền núi thực sự trở thành vấn đề sống
còn của giáo dục. Hai lớp đào tạo giáo viên cấp I (năm 1954) đã có 45 trong số
68 học viên là người miền núi. Tuy vậy, so với yêu cầu phát triển trình độ dân trí
miền núi thì số lượng học sinh miền núi đến trường còn thấp.
Từng bước bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, công tác y tế
và vệ sinh nông thôn ngày càng tiến bộ. Ben cạnh việc củng cố, xây dựng các
bệnh viện, trạm xá, bệnh xá...tỉnh chú ý đào tạo cán bộ y tế xã, phát triển các túi
thuốc cơ sở. Đến tháng 6-1953, số cơ sở y tế tư nhân đã có ở Yên Bình (10/17
xã), Yên Sơn (11/20 xã), Hàm Yên (6/13 xã), Na Hang (9/10 xã), tổng số có 55
trong tổng số 100 xã có cơ sở y tế xã. ở nông thôn, việc tuyên truyền vệ sinh,
phòng bệnh, thực hiện nếp sống mới đã đem lại nhiều kết quả. Năm 1954, nhân
dân đào được 225 hố xí, 1.095 hố ủ phân, làm 225 chuồng trâu xa nhà ở, đào
nhiều giếng khơi...và tổ chức chủng đậu được 49.007 người (chiếm 1/3 dân số).
Một số bệnh dịch như sởi, đậu mùa phát sinh lẻ tẻ ở một số xã đã được dập tắt
kịp thời. Bên cạnh đó, các tủ thuốc được củng cố và phát triển thêm, có tủ thuốc
trị giá trên 10 vạn đồng. Đa số nhân dân đã dùng thuốc chữa bệnh thay cho việc
cúng bái. Đáng chú ý là đã có chủ trương giải quyết những căn bệnh nan y,
chúng ta đã lập trại hủi ở Cầu La (Hàm Yên) với hơn một chục bệnh nhân.
Kết quả của việc phát triển thông tin, văn hoá, văn nghệ đã tạo cho đời
sống xã hội, tinh thần nhân dân một không khí phấn khởi, vui tươi, lành mạnh.
Tại thị xã, các khu phố đã duy trì đều đặn các buổi “dạ thanh” (phát thanh buổi
tuổi) và các chòi phát thanh đọc tin chiến sự, thời sự. Các huyện lỵ đều ra báo
tường (1 đến 2,3 kỳ/tháng), ở những trục đường giao thông, các đầu làng có
bảng tin, nhiều xã xây dựng được chòi phát thanh, không những mang đến cho
bà con tin tức thời sự, góp phần nâng cao hiểu biết, mà còn có tác dụng tuyên
truyền kịp thời, sâu rộng chủ trương, chính sách của Đảng, đồng thời tạo điều
kiện để bà con các nơi hiểu biết nhau hơn. Nhờ có chủ trương đúng đắn và chỉ
đạo thực hiện tốt của tỉnh, phong trào văn hoá, văn nghệ Tuyên Quang thời kỳ
này phát triển khá sôi nổi, đúng hướng. Hoạt động văn hoá, văn nghệ không chỉ
89