Page 78 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 78
dựng tỉnh nhà. Quyết tâm đưa phong trào cách mạng đến thắng lợi cuối cùng,
Đảng bộ và nhân dân Tuyên Quang lại tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh giai cấp
dưới hình thức mới và ở mức độ cao hơn.
Năm 1951, xuất phát từ tình hình kinh tế nước ta lúc này chủ yếu là kinh
tế nông nghiệp, chính phủ đã ban hành "Sắc lệnh về thuế nông nghiệp" nhằm tập
trung được một lượng cần thiết để đảm bảo cung cấp ch o tiền tuyến và bình ổn
giá cả những thứ hàng hoá chính trên thị trường, làm cho cán bộ, đảng viên nhận
thức sâu sắc hơn về cuộc đấu tranh giai cấp ở nông thôn.
Với diện tích ruộng đất 65.700 mẫu , một trong những nguồn thu nhập
2
chính của Tuyên Quang là lấy từ sản xuất nông nghiệp. Thực hiện đúng đường
lối giai cấp của Đảng ở nông thôn, chúng ta đã đánh thuế nặng vào địa chủ, phú
nông; giảm nhẹ cho bần cố, nông và khuyến khích những người trực tiếp lao
động sản xuất, khai hoang tăng vụ, chiếu cố những gia đình đông người và ưu
đãi gia đình quân nhân, liệt sĩ. Quá trình thực hiện thuế nông nghiệp ở tỉnh ta
thực sự là quá trình đấu tranh giai cấp gay go giữa địa chủ, phú nông và nông
dân lao động. Bị động chạm tới nguồn lợi - nguồn thu bất chính trên mồ hôi,
nước mắt của dân nghèo từ bao đời nay, địa chủ, phú nông tìm mọi cách như:
khai man, dây dưa kéo dài, lậu và trốn thuế, lừa phỉnh, xúi giục các phần tử xấu
chống lại ta. Mặc dù công việc còn hoàn toàn mới mẻ, nhiều khó khăn vấp váp,
nhưng Đảng bộ Tuyên Quang đã biết phát huy tác dụng của khối đoàn kết các
dân tộc, đầu tư thích đáng sự lãnh đạo vào công tác thuế nông nghiệp. Ngay sau
khi Sắc lệnh của Chính phủ ra đời, Tỉnh uỷ đã xác định ý nghĩa, tầm quan trọng
của vấn đề trong toàn Đảng bộ, nhân dân, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm những
năm 1951 - 1952. Kết quả đạt được thật đáng mừng. Thuế nông nghiệp năm
1951, tuy là năm đầu thực hiện, tỉnh đã thu được 7.346 tấn thóc, 5 tháng đầu
năm 1952 thu được 6.374,222. Thực tế cho thấy nơi nào có cán bộ lăn lộn, bám
sát cơ sở, kiên trì vận động, tuyên truyền và làm tốt chính sách dân tộc, thì ở đó
phong trào phát triển mạnh. Điển hình như ở xã Kháng Nhật (Sơn Dương), chủ
yếu là đồng bào dân tộc Dao, quần chẹt, do tổ chức tốt nên việc thu thuế rất
nhanh gọn, trở thành một trong những xã hoàn thành sớm nhất huyện. ở Chiêm
Hoá, đồng chí Bí thư Huyện uỷ trực tiếp xuống tận xã, thôn, bản để chỉ đạo thí
điểm, kết quả huyện đã vượt mức tỉnh giao 200 tấn, xã Yên Nguyên có 2 thôn
xong trước thời gian quy định.
Phát huy thắng lợi bước đầu, tháng 2-1953 Tỉnh uỷ Tuyên Quang đã họp
kiểm điểm, rút kinh nghiệm và tăng cường cán bộ xuống các huyện để kiểm tra
đôn đốc thực hiện. Năm 1953 số thóc thuế thu được tăng 1.500 tấn so với năm
1952. Năm 1954, thuế "vụ hạ" thu được 2.027 tấn, đạt 117%, số thóc nhập kho
đến cuối năm đạt 71% định mức.
Tuy nhiên, công tác thuế nông nghiệp còn tồn tại một số khuyết điểm lớn:
có nơi, có lúc coi nhẹ công tác này, ý thức chấp hành chính sách không nghiêm.
Vụ hè năm 1952, huyện Hàm Yên hầu như không làm thuế (chỉ thực hiện được
16% mức tỉnh giao). Do chỉnh lý và miễn giảm thuế chưa công bằng, nên đã gây
mất đoàn kết giữa các dân tộc. Không thấy được tầm quan trọng của việc thực
78