Page 11 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 11

1
                     chuộng. Trong Dư địa chí, Nguyễn Trãi đã nhận xét ““Phúc Yên”   có vải hoa
                     xanh và mật ong vàng...ong vàng rất sạch, nhả mật rất ngọt...sáp hoa là thứ sáp
                     nấu với hoa núi rất thơm”. Người Pháp phải khẳng định: “Kỹ thuật của họ cũng
                     khéo, biết làm rèn, đồ đồng, bạc, làm dao, súng (kíp, hỏa mai)...làm lưỡi cày,
                     làm đồ nữ trang do họ tiện lấy”, “họ cũng thông thạo làm các dụng cụ gia đình,
                                                                             2
                     làm đồ nữ trang bằng bạc, tuy thô nhưng đặc sắc” .
                            Do lâm sản có vị trí kinh tế quan trọng, nên khai thác, chuyên chở lâm sản
                     là một trong những nghề nổi bật. Tại thị trường lâm sản Việt Trì năm 1944,
                     riêng Tuyên Quang chiếm 60% tổng số lâm sản từ các nơi đến.
                            Từ trong lao động, chiến đấu, với tình yêu quê hương tha thiết, với đôi
                     bàn tay khéo léo và tâm hồn nhạy cảm, các dân tộc Tuyên Quang đã sáng tạo,
                     gìn giữ và làm giàu lên kho tàng văn hóa của mình qua nhiều thế hệ. những
                     chuyện cổ tích, những câu tục ngữ, ca dao giả thích nguồn gốc dân tộc, phản ánh
                     cuộc sống hàng ngày đầy khát vọng; những làn điệu Then, Gọi Sli, Lượn, sình
                     Ca...; các hội Lùng Tùng... và những đường nét đẹp, tinh xảo, duyên dáng của
                     hoa văn trên những tấm thổ cẩm, vải, hàng mây, tre đan và đồ trang sức đã thể
                     hiện sinh động, đặc sắc đời sống tinh thần của mỗi dân tộc, mỗi vùng. Bên cạnh
                     đó, đồng bào dưới xuôi mang theo nền văn hóa châu thổ đã bồi đắp, hòa với dân
                     tộc địa phương tạo thành đời sống văn hóa phong phú đa dạng.

                            Nằm ở vị trí chiến lược quan trọng, là “ trấn biên ” che chở cho “ kinh
                     trấn  ”, từ  xa  xưa,  nhân  dân  Tuyên  Quang  đã  thể  hiện  rõ  tinh  thần  đấu  tranh
                     chống chế độ phong  kiến phản động thối nát, đồng thời luôn cùng các triều đại
                     phong kiến tiến bộ đứng lên chiến đấu chống bon xâm lược phương Bắc, bảo vệ
                     Tổ quốc.
                            Tấm bia mang dòng chữ “ Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi ” ( Nghĩa là bia chùa
                     Bảo Ninh Sùng Phúc ) ở xã Yên Nguyên ( Chiêm Hóa ) ghi tạc công lao của họ
                     Hà cùng nhà Lý chống quân xâm lược Tống. Ngoài phần đạo lý của nhà Phật,
                     nội dung chính của bia còn nói về gia thế, công lao của dòng họ Hà có 15 đời
                     làm Châu mục coi giũ châu Vị Long ( Chiêm Hóa ngày nay ). Trước nguy cơ
                     xâm lược của nhà Tống, tháng 10- 1075, Lý Thường Kiệt, tổng chỉ huy quân đội
                     lúc  đó,  với  phương  châm  “Tiên  phát  chế  nhân”  (  đánh  trước  chủ  động  chặn
                     giặc), thống lĩnh 10 vạn quân, chia làm hai đạo thủy, bộ tập kích thẳng vào đất
                     Tống. Thân phụ Hà Hưng Tông cùng binh mã châu Vị Long đóng một vai trò
                     quan trọng trong thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược kiềm chế này. Văn bia
                     ghi công trạng của vị thủ lĩnh họ Hà: “Thân phụ Thái Phó (chỉ cha của Hà Hưng
                     Tông) chỉnh đốn vương sư đánh sang ải Bắc, vây thành Ung cho bõ giận. Bắt
                     tướng võ, dâng tù binh, do đó được nhà vua ban chức “Hữu đại liên ban đoàn
                     huyện xứ”. Đoạn bia ghi:

                            “Người giỏi ra đời



                     1 . Huyện Hàm Yên và Yen Sơn ngày nay.
                     2  . Ký chú của Công sứ Lupi.


                                                                 11
   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16