Page 9 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 9
hoặc sang Cao Bằng. Ngoài ra còn có nhiều đường liên xã, liên thong, đường
dân sinh, đường lâm nghiệp nối các điểm dân cư, các vùng kinh tế với nhau.
Những con đường này là yếu tổ góp phần quyết định sự giao lưu kinh tế, văn
hóa...giữa các vùng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, ngoài ra
nó tạo nên sự linh hoạt, cơ động trong tác chiến khi có chiến tranh.
Từ lâu, Tuyên Quang được nhiều người biết đến như một điểm để du lịch,
tìm hiểu về thiên nhiên, lịch sử và con người. Người Pháp có nhận xét: “Tỉnh
Tuyên Quang có thể làm cho khách du lịch và thợ săn thích thú...có thể đi viếng
thăm bằng xe hơi những thung lũng của sông Gâm mà các núi đá căn ke dốc
thẳng đứng sừng sững ở bờ sông, các hang, các rừng rậm đẹp. Thung lũng đẹp
đẽ của sông Đáy nằm liền dưới chân của ngọn núi Tam Đảo cũng rất đẹp...Ngày
chủ nhật và ngày lễ, dân Hà Nội cũng lên chơi đông đúc”. Say mê với những
truyền thuyết, tín ngưỡng, cảnh trí, khách du lịch có thể tìm đến với đền Mẫu,
chùa Hang, dền Đạo Ngạn, núi Nghiêm, Đát...và sau đó đến tắm tại suối nước
nóng Mỹ Lâm dể dưỡng sức chữa bệnh; đồng thời khách cũng có thể đi thăm
các di tích lịch sử: Thành Nhà Bầu, thành Nhà Mạc, Hòa Mục, Bình Ca, Tân
Trào, Đá Bàn, Kim Bình, Km số 7, Cầu Cả, Đèo Chắn, Hòn Lau...để hiểu hơn
về truyền thống đấu tranh anh dũng của đồng bào các dân tộc Tuyên Quang
cũng như lịch sử oai hùng của dân tộc Tuyên Quang đã, đang và sẽ khơi gợi một
tiềm năng lớn về du lịch.
Nhìn một cách tổng thể, vị thế và điều kiện tự nhiên của Tuyên Quang
mặc dù gây không ít khó khăn trong quá trình đi lên của tỉnh, nhưng cũng chính
nó lại tạo ra những ưu thế riêng. Về quân sự, Tuyên Quang có đầy đủ các yếu tố
cần thiết của một căn cứ chiến lược, cơ động, vững chắc cả trong chiến tranh
giải phóng lẫn chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời , Tuyên Quang cũng hoàn
toàn có khả năng phát triển một nền kinh tế theo cơ cấu nông, lâm nghiệp –
công nghiệp chế biến - dịch vụ, đặc biệt là phát triển chăn nuôi đại gia súc ( trâu
. bò , ngựa, dê...), trồng cây công nghiệp và dược liệu (chè, cà phê, mía, lạc, đỗ
dâu tằm, quế, sa nhân, xả...) cùng các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao (cam,
nhãn, vải, na, hồng, ...) cũng như xây dựng một nền văn hoá tiên tiến trên cơ sở
giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc.
Trong quá trình cùng cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, vượt qua bao
khó khăn, thử thách , dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền địa phương,
nhân dân các dân tộc Tuyên Quang đã từng bước khai thác, phát huy thế mạnh
của địa phương làm biến đổi nhanh chóng bộ mặt kinh tế - xã hội của tỉnh. Tính
đến ngày 1-4-1999 dân số toàn tỉnh là 675.110 người ( trong đó nam giới:
333.737 người, nữ giới : 341.373 người; sống ở thành thị : 74.591 người ; sống
ở nông thôn: 600.519 người), gồm trên 20 dân tộc anh em, đông nhất là dân tộc
Kinh và dân tộc Tày. Tổng sản phẩm ( GDP ) ( sản xuất theo giá trị hiện hành)
năm 1998 là 1.424.585 triệu đồng; giá trị tổng sản lượng nông nghiệp là 808.120
triệu đồng; tổng thu ngân sách trên địa bàn toàn tỉnh đang có những bước phát
triển ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu chung của địa phương. Năm học 1998-
9