Page 10 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 10
1999 toàn tỉnh có 280 trường phổ thông với 181.970 học sinh, 3 trường trung
học chuyên nghiệp và dạy nghề, 4 bệnh viện tỉnh, 7 bệnh viện huyện và 144
1
trạm y tế với 1.730 giường bệnh và 1.246 cán bộ y tế (trong đó có 284 bác sĩ ) .
Tuyên Quang xưa (bao gồm cả Hà Giang) thuộc bộ Vũ Định của Nhà
nước Văn Lang . Trải qua các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê... Tuyên Quang thuộc
châu Tuyên Quang, thừa Tuyên Quang, phủ Tuyên Hoá, trấn Minh Quang. Ngày
31-5-1884 Pháp đặt chân chiếm đóng Tuyên Quang, đầu thế kỷ XX chúng chia
Tuyên Quang thành hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang. Tuyên Quang gồm có 6
châu: Sơn Dương, Yên Sơn, Yên Bình, Hàm Yên, Chiêm Hoá, Na Hang với 194
xã. Sau cách mạng Tháng Tám ( 1945) và sau hoà bình lập lại miền Bắc (
1954), Tuyên Quang có một số thay đổi về hành chính. Tháng 7-1956 huyện
Yên Bình được tách khỏi Tuyên Quang nhập vào tỉnh Yên Bái. Năm 1976,
Tuyên Quang sáp nhập với Hà Giang thành tỉnh Hà Tuyên. Đến năm 1991 Hà
Tuyên lại được chia thành 2 tỉnh Hà GIang và Tuyên Quang. Hiện nay, Tuyên
Quang có 5 huyện, 1 thị xã với 145 xã, phường , thị trấn.
Là mảnh đất vốn lịch sử lâu đời, Tuyên Quang từ xa xưa đã có sự tồn tại
của con người. Tại Bình Ca, An Tường, An Khang (Yên Sơn) các nhà khảo cổ
đã tìm thấy những di vật của người nguyên thủy: Rùi đá, mũi giáo, hoá thạch
xương trâu... thuộc thời kỳ đá mới. Tại huyện Yên Bình cũng tìm thấy những
công cụ sản xuất băng đá đủ các thời kỳ, có cả khuôn đúc tiền, trống đồng và
nhiều công cụ bằng đồng khác. Qua các hiện vật tìm thấy, có thể kết luận rằng:
Cách đây hàng vạn năm, các bộ lạc người cổ đại đã từng cư trú dọc triền sông
Lô, sông Chảy...
Trải qua hàng ngàn năm chinh phục thiên nhiên, đức tính cần cù, lòng
dũng cảm, sự sáng tạo trong lao động của nhân dân Tuyên Quang đã được hun
đúc. Bằng sức lực, trí tuệ của mình, qua nhiều năm tháng gian khổ, đòng bào các
dân tộc nơi dây đã khắc lên núi rừng hoang vu lớp lớp vòng ruộng bậc thang
xanh rờn ngô lúa, biến những đầm lầy, gò bãi rậm rạp...thành những tràn ruộng,
ao hồ...phát triển trồng trọt và chăn nuôi. Mặc dù “diện tích trồng chọt chiếm rất
ít ở các thung lũng có sông tưới hoặc rải rác ở các ở những chân vại giữa núi
2
rừng có nước suối. Toàn bộ còn lại là rừng dày đặc và bàn lầy” . Trước năm
1930, sản lượng lúa của Tuyên Quang hàng năm đạt từ 4.000 đến 6.000 tấn, trâu
bò xuất ra ngoại tỉnh năm cao nhất là 3.000 con. Ngoài chăn nuôi và trồng trọt,
các dân tộc Tuyên Quang còn làm nhiều nghề thủ công như khai thác, chế biến
nông, lâm sản và dược liệu; thêu, dệt các mặt hàng từ sợi bông, sợi lanh và
nhuộm vải; chế ra công cụ lao động, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt từ sắt, đồng,
song, mây, tre, nứa...cùng với đồ trang sức từ vàng, bạc. Quá trình tác động
quyết liệt vào tự nhiên bao đời nay đã sản sinh ra nhiều nghề cổ truyền có giá trị.
Từ lâu, các sản vật của Tuyên Quang đã sớm được nhiều nơi biết tiếng và ưu
1 . Các số liệu ở đoạn này đều lấy từ số liệu thóng kê 1998 của Cục Thống kê Tuyên Quang.
2 . Ký chú của Công sức Lupi.
10