Page 8 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 8

đường giao thông, vừa cung cấp nước, thủy sản phục vụ đời sống, sản xuất và
                     chứa đựng tiềm năng phát triển thủy điện nhỏ. Song, do độ dốc cao, lòng sông
                     hẹp, lắm thác ghềnh nên cũng thường gây ra lũ lụt vào mùa mưa và nhiều nguy
                     hiểm bất ngờ cho thuyền bè qua lại.

                            Núi, đồi Tuyên Quang chiếm 73,2% diện tích toàn tỉnh, chịu sự chi phối
                     lớn bởi các dãy núi cao như dãy Tam Đảo ở phía nam và dãy Cao Khánh ở phía
                     bắc, dãy  Ba  Xứ...và  có  nhiều  đỉnh  cao  như  núi  Chậm  Chu  (1.587m),  núi  Là
                     (942m). Núi, đồi Tuyên Quang phần lớn được bao phủ bởi một thảm thực vật
                                                                        1
                     nhiệt đới khá dày và phong phú về chủng loại .
                            Thiên nhiên đã ưu đãi cho Tuyên Quang một nguồn tài nguyên khoáng
                     sản giàu có. Trên rừng có nhiều loại gỗ tốt như: Đinh, lim, sến, táu, nghiến, lát,
                     pơmu...và bạt ngàn tre, nứa, song, mây...cùng các loại cây dược liệu như: Sa
                     nhân, ba kích, thục, sâm...các đặc sản như: Nấm hương, mộc nhĩ, mật ong...cùng
                     nhiều loại muông thú như: Hổ, báo, gấu, trăn, tắc kè, đặc biệt là voọc mũi hếch –
                     một loại thú có tên trong danh mục bảo vệ động vật hiếm trên thế giới.

                            Lòng đất Tuyên Quang chứa nhiều khoáng sản: Vàng, thiếc, kẽm, ba rít,
                     pisít, ăngtimoan, măng gan, cao lanh..., thiên nhiên có sẵn các loại cát, sỏi, đa
                     vôi, đất chịu lửa...Đó là nguồn khoáng sản vô giá, cho phép địa phương phát
                     triển, làm giàu bằng ngành công nghiệp khai thác mỏ và sản xuất vật liệu xây
                     dựng.
                            Rừng và khoáng sản là hai thế mạnh mà thiên nhiên đã tạo ra cho Tuyên
                     Quang. Trước đây, khi chiếm đóng Tuyên Quang thực dân Pháp đã thấy ngay
                     hai nguồn lợi này và tập trung vơ vét.

                            Nằm trong vùng khí hậu rừng núi nhiệt đới, Tuyên Quang có lượng mưa
                     trung bình hàng năm rất lớn, độ ẩm cao, lượng chiếu sáng lớn, chia thành hai
                     mùa rõ rệt và hay thay đổi thất thường. Mùa nóng kéo dài từ tháng 4 đến tháng
                                                 0
                     9, nhiệt độ trung bình 28 C; mùa rét từ tháng 10 đến tháng 3, nhiệt độ trung bình
                                                    0
                        0
                     16 C có lúc xuống dưới 10 C. Điều kiện khí hậu trên đã tạo thuận lợi cho thảm
                     thực vật phát triển, nhất là rừng, cây dược liệu và cây công  nghiệp. Tuy nhiên,
                     Tuyên Quang hay có lốc mạnh, lũ to, sương muối và chịu ảnh hưởng của gió
                     mùa đông bắc. Điều kiện khí hậu, thủy sinh và rừng núi của tỉnh cũng là tác
                     nhân gây các dịch bệnh sốt rét, thấp khớp, bướu cổ...
                            Sau nhiều năm xây dựng, hiện nay Tuyên Quang có hệ thống đường bộ
                     khá phát triển. Quốc lộ 2 là con đường huyết mạch nối Tuyên Quang với tỉnh
                     biên giới Hà Giang và các tỉnh, thành phố miền xuôi. Tỉnh có một số đường trục
                     lớn như Quốc lộ 37, (trước là đường 13A, từ Bờ Đậu (Thái Nguyên) qua Tuyên
                     Quang  sang  Yên  Bái;  đường  từ  thị  xã  Tuyên  Quang  về  Sơn  Dương  qua  đèo
                     Khuôn Do xuôi vè Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc) và đường 174 và 176 từ km 31 (Thái
                     Sơn – Hàm Yên) qua Chiêm Hóa lên Na Hang và từ đó có thể lên Hà Giang



                                                                    2
                     1  . Năm 1940 diện tích rừng của Tuyên Quang là 5.070 km , chiếm 4/5 diện tích toàn tỉnh. Năm 1991, Tuyên
                     Quang còn 229.316 ha rừng, chiếm 54% diện tích đất lâm nghiệp của tỉnh.

                                                                  8
   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13