Page 223 - Tuyên Quang trong cách mạng tháng Tám
P. 223
cũng vừa thở vừa hưởng ứng hò lơ của Lạng, rồi cái mệt cũng qua đi khi đã vượt
được đèo, lọc cọc chống gậy lao xuống dốc rồi lại vui chân qua bản làng…
Chúng tôi ra được gần đường cái ở Đầm Hồng. Nghỉ tạm một bản nào
đó, tôi không nhớ tên. Ở đây dân đang đói, một cơn lũ bất ngờ tràn qua đã cuốn
trôi hết. Nghe nói một đại đội bộ đội hành quân nghỉ đêm bên bờ suối bị lũ cuốn
chết, một số dân hết sạch lương thực, ăn sắn qua ngày, mệt, đói, người lớn trẻ
em ai cũng lờ đờ rất tội. Chúng tôi cũng chẳng hơn gì, hành quân vất vả vẫn gạo
hẩm, cụ Bả không dám vo gạo bình thường, chỉ thả thúng gạo xuống nước, lấy
tay vỗ vỗ nhẹ, cho gạo chìm xuống, khoả nhẹ cho trấu và rác nổi lên hớt đi rồi
nhấc lên để ráo nước đổ vào vạc thổi cơm. Nhưng dân đói quá, mình còn gạo
phải sẻ cho mỗi nhà vài bát gạo, đỡ thêm cho mấy nhà mình ở nhờ.
Thị trấn Đầm Hồng lèo tèo một bản nhỏ hai bên bờ sông, chúng tôi lội
qua sông, không thể ngờ được có tầu hoả, thực ra là xe goòng, có đầu tàu chạy
than củi kéo độ 3-4 toa nhỏ. Đường goòng Đầm Hồng, Bản Thi, chúng tôi chất
đồ lồng cồng và các thứ nặng lên toa xe, một số đi theo hàng. Chúng tôi đi bộ,
tới cây số 12, vừa đi vừa hái ổi rừng ăn, thỉnh thoảng cũng có hầm tàu xuyên
qua núi. Chúng tôi rất thích thú vì đường hầm này là nơi tốt nhất cho tầu trốn
máy bay địch. Tới nơi nghỉ trong lán dựng tạm của Ban tiếp tế ATK thấy chị Du
bình thản đứng đan áo len, thanh bình quá.
1
Còn một đoạn đường hơn mười cây số nữa mới tới làng Đài , nơi cơ quan
đóng quân. Chúng tôi qua suối lại gánh gánh gồng gồng men theo dòng suối cứ
vòng vèo quanh co từ trưa đến chiều tối mới tới nơi. Anh em công tác đội đã
dựng lên một số nhà lá cho các đồng chí lãnh đạo ở. Chúng tôi từng phòng một
chia nhau ở nhờ nhà dân, xắp xếp xa gần cho thuận tiện công việc. Một cánh
đồng tương đối bằng phẳng, đẹp, cấy một vụ, chúng tôi đến vào cuối thu nên lúa
đã gặt xong, ruộng khô chúng tôi làm sân chơi.
Phòng tài vụ đóng ở nhà ông Vàng, nhà sàn truyền thống của dân tộc Tày,
tương đối rộng. Phòng bấy giờ có anh Nguyễn Vĩnh Thiện, Phan Văn Thịnh,
Nguyễn Xuân Cảnh và tôi. Năm đó chúng tôi ăn tết với dân, trai gái đánh còn
vui vẻ lắm. Mỗi gia đình mang ra sân chơi một mâm cỗ, có rượu thịt và xôi
chấm muối, thịt, xôi để trên lá chuối tươi, ngồn ngộn. Đặc biệt có bánh ngọt dân
làm theo truyền thống, kiểu như bánh quy, bánh khảo ở dưới xuôi đóng bằng
khuôn gỗ các kiểu. Rượu uống bằng bát, các cô gái Tày bạo lắm, cứ ép chúng tôi
uống rượu, phải nói phụ nữ ở đây tửu lượng khá lắm, chúng tôi trừ vài anh còn
chịu thua. Ăn rồi đánh còn, rồi lại ăn tuỳ thích, ăn bằng hết, không được để thừa
phải bưng về, một điều cấm kỵ…
Sau tết, lại những ngày bình thường. Chúng tôi dạy bình dân, dựng một
chòi cao tối tối chúng tôi phát thanh bằng tiếng Tày, y tá Lực thạo tiếng nhận
1 Thuộc xã Kiên Đài, huyện Chiêm Hóa
223