Page 719 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 719
Phêìn thûá tû: KINH TÏË - XAÄ HÖÅI 719
Tày. Đan lát ở đây cũng chỉ là nghề phụ và làm được nhiều loại công cụ sản xuất và
để gia đình dùng là chính. đồ gia dụng, như dao, liềm, hái, cuốc và
cả lưỡi rìu đốn cây. Sản phẩm rèn khá tốt,
3. rèn đúc được tiêu thụ rộng rãi trong vùng. Tuy vậy,
Rèn: Nghề rèn phát triển mạnh ở người ngay ở những nơi nghề rèn phát triển nhất
Nùng, người Mông. Có thôn bản làm nghề thì nó vẫn chưa hoàn toàn tách khỏi nông
rèn rất nổi tiếng. Ở đây, mỗi lò rèn là một nghiệp. Vào những ngày mùa bận rộn, các
kíp thợ với thợ cả, thợ bạn và thợ học việc. thợ rèn vẫn phải nghỉ để làm nông nghiệp.
Mỗi lò có dấu hiệu riêng đóng vào sản Ở nhiều vùng, mỗi xã chỉ lác đác một
phẩm, suốt đời người thợ phấn đấu để vài người biết làm rèn. Họ hành nghề chủ
giữ gìn uy tín dấu hiệu của kíp thợ mình. yếu lúc thời vụ nông nhàn và rèn đổi công
Người tiêu dùng mua hàng của lò nào, khi cho nhau là chính.
hỏng mang đến được kíp thợ vui vẻ sửa Đúc: Nghề phổ biến có ở người Nùng.
chữa lại cho, không mất tiền công. Đây là Dụng cụ chính để đúc là lò bễ, nồi nấu gang
một kiểu bảo hành sản phẩm để giữ chữ tín và khuôn đúc. Bễ được cấu tạo và lắp đặt
với người tiêu dùng. Các công cụ để làm như bễ dùng trong lò rèn. Đó cũng là loại
nghề rèn đầy đủ và phong phú, mỗi dụng bễ một ống, đặt nằm ngang, nhưng có kích
cụ như búa, đe, kìm, v.v. đều có nhiều loại thước lớn: dài tới 3 m, đường kính 0,3 m.
với những công dụng khác nhau; đe loại ống bễ bằng gỗ mềm để dễ bào lùa phía
to “tăng xi” dùng để kê đập cho phẳng trong thành ống cho thật nhẵn. Nồi nấu
sắt, loại nhỏ lồi “tăng mó” dùng để kê đập gang hình nửa quả cầu, bằng gang, có thể
những cục sắt nhỏ dầy cho dẹt ra và để kê đựng được khoảng 20 kg gang mảnh. Nếu
đập tu sửa sản phẩm. Bễ dùng trong nghề mỗi mẻ nấu 20 kg gang mảnh thì đúc được
rèn của đồng bào Nùng làm bằng thân cây bốn lưỡi cày. Gang mảnh chủ yếu là tận
gỗ tròn khoét rỗng, dài 1,2 m, đường kính dụng lưỡi cày cũ, nồi chảo gang vỡ, v.v..
0,25 m. Hai đầu ống bễ được bịt kín bằng Lưỡi cày được đúc bằng gang trắng nên rất
bánh xe gỗ, ở mỗi bánh xe đều có đục cửa bền, khi cày, không bị dính đất. Khuôn đúc
lấy gió. Phía trong ống bễ có pít tông là lưỡi cày gồm hai phần: âm bản tương ứng
bánh xe gỗ có tiết diện gần khít với thành với đế lưỡi và dương bản tương ứng với
ống bễ, xung quanh bánh xe có gắn lông mặt lưỡi cày, đều được làm bằng đất chịu
gà để cho vừa khít vừa êm khi kéo bễ. Bễ lửa trộn lẫn với trấu, lông lợn cho quánh
được đặt nằm ngang trên mặt đất, từ giữa và không rạn nứt. Ngoài ra, đúc mỗi lưỡi
ống bễ có ống dẫn gió thông với đáy lò cày lại kèm theo một lõi đất. Trước khi đúc,
than - nơi nung sắt. Cấu tạo và lắp đặt loại quét lên mặt khuôn một lớp muội nồi để
bễ này khác so với loại bễ đứng hai ống gang không dính vào khuôn và mặt sản
của các lò rèn vùng đồng bằng, và lại càng phẩm được mịn. Để khuôn cân đối, cố định
khác nhiều so với loại bễ da (của người rồi khi gang đã chảy già thì đổ khuôn; sau
Xơđăng) hay bễ quay tay mới đây. Loại khi đổ 15 - 20 phút thì có thể dỡ khuôn và
bễ kéo một ống nằm ngang này phổ biến được lưỡi cày. Lưỡi cày do đồng bào tự đúc
khá rộng rãi ở người Tày, Nùng và một số dùng rất bền, chịu được va đập mà ít bị mẻ
dân tộc ở khu vực miền núi phía Bắc. Với gãy. Ngoài việc sản xuất lưỡi cày, một số lò
nhiên liệu đốt lò là than gỗ và nguyên liệu đúc còn đổ đạn ghém (dùng cho súng săn).
sắt phế thải, các lò rèn của người Nùng đã Thợ đúc người Nùng hành nghề nhiều vào