Page 724 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 724

724     ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG



                   Riêng  đối  với  rừng  Tuyên  Quang,        sản phẩm của đồng bào trong vùng mang
               bằng việc thiết lập hệ thống kiểm lâm chặt      đến trao đổi, gồm: sản phẩm nông nghiệp,
               chẽ từ tỉnh đến cơ sở, mỗi năm thực dân         lâm sản quý, hàng thủ công gia đình, v.v..
               Pháp đã thu được món lời to lớn từ việc             Ở tỉnh lỵ và huyện lỵ, thị trường bán
               khai thác gỗ và các loại lâm sản khác để        lẻ còn bao gồm các cửa hàng, cửa hiệu của

               xuất khẩu . Tính ra, các khu rừng ở Tuyên       các nhà buôn, nhà thầu.
                         1
               Quang  (76.000  ha  do  kiểm  lâm  trực  tiếp       Dưới thời Pháp thuộc, để trao đổi và
               cai quản và các khu rừng tự do khác do          lưu thông hàng hóa, không có đơn vị thống
               địa  phương  trực  tiếp  quản  lý),  đã  cung   nhất mà tùy theo quy ước của từng vùng.
               cấp cho tư bản Pháp mỗi năm hàng chục           Cụ thể, như gạo thì chỗ này bán bằng đấu,
               nghìn khối gỗ và lâm thổ sản .                  chỗ kia thì bằng bát, nơi khác đong bằng
                                             2
                   Các  nhà  thầu  người  Hoa,  người  Việt    bơ sữa bò, ống tre (nơi thì đầy có ngọn,

               quan hệ với chính quyền thuộc địa để khai       nơi  gạt  phẳng  miệng  ống);  thịt  lợn,  nơi
               thác khoáng sản và bán lương thực, thực         bán bằng cân ta, nơi thì bán cân kilô... Chỉ
               phẩm, chất đốt, nguyên vật liệu xây dựng...     ở trung tâm buôn bán lớn, người ta mới
                   - Thị trường bán lẻ: Chợ phiên là loại      sử dụng các đơn vị đo lường của người
               hình phổ biến của thị trường bán lẻ bấy         Pháp khi buôn bán với người Âu. Tại các
               giờ. Chợ họp vào những ngày âm lịch nhất        chợ ở thôn quê người ta mua bán, trao đổi

               định trong tháng, ở những nơi thuận tiện        đủ các mặt hàng, đôi khi trao đổi theo “cả
               giao thông, tập trung dân cư, có mặt bằng       mớ”,  “cả  lô”;  thường  thì  bán  lẻ,  vì  mặt
               rộng  và  thoáng.  Qua  lịch  chợ  phiên  của   hàng nhiều nhưng số lượng không lớn .
                                                                                                      3
               một vùng, có thể thấy sự hợp lý về thời             Hầu như chợ phiên nào cũng có khu
               gian và hàng hóa của mỗi vùng.                  vực  bán  hàng  thủ  công  (hàng  dệt  và  đồ
                   Thông thường, sản phẩm tại các chợ          đan lát), khu vực bán trâu, bò, ngựa riêng,
               khá đa dạng, có các thương nhân và các          rất  tiện  cho  thương  nhân  lựa  chọn  hàng

               sạp hàng, quán hàng cố định. Hàng hóa có        hóa, mua bán. Ở Tuyên Quang, theo thống
               thể do thương nhân thu gom hoặc mang từ         kê của người Pháp, năm 1922 có 11.000 con
               xa đến. Hấp dẫn và phổ biến hơn cả vẫn là       trâu, bò, trong tổng số 577.000 con trâu, bò





                   1. Chính viên Công sứ Lupi đã từng nhận xét: Việc kiểm lâm rất quan trọng vì tỉnh này có nhiều
               rừng gỗ quý. Có bốn hạt gọi là Tuyên Quang, Yên Bình, Phan Lương và Chiêm Hóa. Có một lâm trường
               gọi là Lâm trường Sông Lô.
                   2. Dưới thời Pháp thuộc, các kiểm lâm được phân hạng và trực thuộc tổng kiểm lâm (của từng
               vùng). Kiểm lâm hạng 1: 7.000 phrăng/năm; hạng 2: 6.000 phrăng/năm; hạng 3: 5000 phrăng/năm; hạng
               4: 4.000 phrăng/năm; kiểm lâm tập sự: 3.500 phrăng/năm; công nhân lâm nghiệp hạng 1: 330 phrăng/
               năm; hạng 2: 270 phrăng/năm.
                   3. Theo báo cáo của các viên công sứ, từ năm 1927 đến năm 1930, hệ thống đo lường của người Pháp
               đã được phần đông người dân bản xứ chấp nhận áp dụng trong một số hoạt động thương mại. Chẳng
               hạn, ở Vĩnh Yên, Bắc Giang, Thái Nguyên, Quảng Yên, Tuyên Quang... các thầu khoán xây dựng đã sử
               dụng đơn vị tạ để mua vôi, cát...; các thương nhân buôn bán vải mặc đã ngày càng sử dụng thước mét;
               và chai lít đã được coi như đơn vị để đong đo dầu hỏa và rượu.
                   Trong thư của Công sứ Bắc Giang gửi Thống sứ Bắc Kỳ, ngày 10-10-1927 có viết: “Các đơn vị đo lường
               hệ mét đã được dùng thường xuyên trong nhiều hoạt động mua bán. Các đơn vị đo lường An Nam chỉ còn dùng
               trong hoạt động bán lẻ” (Extension au Tonkin de la Réglementation des paids et mesures (1899-1936).
   719   720   721   722   723   724   725   726   727   728   729