Page 725 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 725
Phêìn thûá tû: KINH TÏË - XAÄ HÖÅI 725
của toàn Bắc Kỳ . Do nhu cầu về sức kéo Ban Kinh tế tỉnh được thành lập, chịu trách
1
và thực phẩm, hằng năm Tuyên Quang và nhiệm theo dõi, kiểm tra việc thực hiện
các tỉnh miền núi phía Bắc đã cung cấp đường lối, chính sách phát triển kinh tế
từ 30.000-40.000 con trâu, bò cho các tỉnh của Đảng ở tỉnh. Đồng thời, tạo nguồn vốn
đồng bằng Bắc Kỳ. và quản lý kinh phí hoạt động của Đảng
Ngoài các hình thức buôn bán, trao bộ. Ngoài một số doanh điền, tỉnh còn
đổi trên, còn có các hình thức buôn bán thành lập Hãng kinh doanh Bắc Thắng,
lẻ do các lái buôn người Trung Quốc với hoạt động chính là thu mua, trao đổi
thuê thuyền, mang đồ gốm, đồ sứ (chảo, và sản xuất một số lâm sản, thổ sản, nhu
chum vại, bát đĩa,...), các sản phẩm được yếu phẩm. Bước đầu, tuy thu nhập không
chế biến sẵn (như đậu xị, tầu soi, xì dầu, lớn nhưng cũng tạo ra một phần kinh phí
diêm, v.v.) bán, rồi mua về các loại nông đáng kể để đảm bảo hoạt động chung của
sản khác... Đảng bộ tỉnh, hơn nữa tạo nét mới trong
- Buôn bán đường dài ra ngoài tỉnh hoạt động kinh tế ở địa phương trong công
có thị trường trâu bò, hàng lâm sản quý cuộc kháng chiến, kiến quốc.
hiếm, gỗ... Các lái thương mua những sản Năm 1948, dân số của Tuyên Quang là
vật trên rồi thuê người địa phương dắt 12 vạn người (chưa kể đồng bào tản cư và
hoặc chở về các chợ vùng xuôi, giao cho lực lượng cán bộ của các cơ quan đầu não
chủ bán. kháng chiến của Trung ương Đảng, Chính
Còn một loại thị trường đường dài phủ và quân đội đóng trên địa bàn), mỗi
nữa là các thuyền buôn chuyến của năm tiêu thụ khoảng 34.270.770 kg lương
người Trung Quốc, ngược xuôi trên các thực; trong khi đó, tổng sản lượng lương
sông lớn để trao đổi, buôn bán thóc, gạo, thực của toàn tỉnh hằng năm mới đạt
lâm sản quý. 28.470.000 kg. Lương thực chuyển từ nơi
khác đến rất thất thường và không đủ bù
2. Thương mại Tuyên Quang thời đắp lượng thiếu hụt. Các mặt hàng tiêu
kỳ 1946-1954 dùng, ngay cả các nhu yếu phẩm hằng
Cuối năm 1946 - đầu năm 1947, nguồn ngày cũng rất thiếu thốn. Trong lúc đó,
hàng phục vụ nhân dân và cuộc kháng sản xuất của tỉnh gặp nhiều trở ngại: thiếu
chiến thực sự khan hiếm, đòi hỏi ngành cán bộ chuyên trách, thiếu vốn, nhân dân
thương nghiệp phải có những tháo gỡ nặng tâm lý thủ cựu, ỷ lại vào thiên nhiên,
từng bước. Cũng vào thời điểm này, Chủ công cụ lao động và kỹ thuật sản xuất vừa
tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 220/SL, không đủ, vừa lạc hậu... Bên cạnh đó, ở
ngày 26-11-1946, thành lập Nha Thương nhiều nơi còn quan niệm sai lầm về vấn
vụ (thuộc Bộ Kinh tế), là tổ chức tiền thân đề tự cấp, tự túc... Đây được coi là trở ngại
của ngành thương mại Việt Nam ngày nay. lớn nhất đối với ngành thương nghiệp
Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, năm 1948, Tuyên Quang.
1. Kết quả điều tra tình hình trâu, bò của Bắc Kỳ năm 1922 được công bố chính thức trên Tạp chí
Annuaire statistique de L’Indochine, với số lượng 577.000 con, trong đó có 380.000 con trâu, 197.000 con bò
(Annuaire statistique de L’Indochine vol 1913-1922. Trích theo Tạ Thị Thúy: Chăn nuôi trâu bò ở Bắc Kỳ nửa
đầu thế kỷ XX, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2 (309), năm 2000, tr.69-70); năm 1931, ở Bắc Kỳ có 840.000
con; năm 1937: 850.000 con trâu, bò.