Page 717 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 717

Phêìn thûá tû: KINH TÏË - XAÄ HÖÅI  717

               II- CÁC NGHỀ THủ CÔNG TRUYỀN THỐNG              thành sợi... Công đoạn này cũng mất rất

                                                               nhiều thời gian, 3-4 công mới kéo được 1
                   1. Nghề trồng bông, dệt vải, trồng
               dâu, dệt tơ lụa                                 kg sợi, tương đương với 1 kg bông; cứ 1 kg
                                                               bông kéo thành 10 búp sợi (con sợi) là vừa.
                   Đây  là  một  trong  những  nghề  thủ       Con sợi được hồ cứng bằng nước cháo bột
               công truyền thống lâu đời ở các tỉnh miền       ngô hoặc gạo, để làm sợi dọc.
               núi phía Bắc và ở Tuyên Quang.                      Dùng  “cọn  lót”  (guồng  sợi)  tạo  sợi
                   Trước  năm  1945,  nghề  trồng  bông,       thành các con sợi và đưa vào khung dệt.
               trồng lanh, dệt vải được đồng bào các dân       Con sợi to để mắc sợi dọc, con sợi nhỏ để
               tộc coi trọng. Tuy nhiên, do điều kiện và       dệt chỉ ngang. “Pài tồng” (khung thả chỉ)
               truyền thống văn hoá mà trong nghề dệt,         là  dụng  cụ  giăng  sợi  thành  thảm  sợi  và
               đặc biệt là dệt vải thổ cẩm của đồng bào        dàn đều trên khung dệt.
               Tày, Nùng, có những nét riêng so với các            Bộ  khung  dệt  gồm  có  các  bộ  phận:

               dân  tộc  khác  trong  vùng.  Chẳng  hạn,  ở    thoi dệt, ống chỉ, lược ném sợi, cần tách
               Tuyên Quang thì nghề trồng bông, trồng          sợi, trục cuộn và thả sợi. Khi dệt, trước hết
               lanh,  dệt  vải,  nhuộm  vải,  v.v.  của  người   dùng khung thả chỉ giăng sợi thành thảm
               Nùng duy trì bền lâu hơn của người Tày.
               Ngược lại, nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm        sợi và dàn đều trên khung dệt. Người dệt
               tơ, dệt lụa phát triển mạnh ở nhiều vùng        ngồi thẳng trên ghế, buộc vào lưng một cái
               người Tày, mà gần như vắng bóng ở các           đai nối với thanh tre quấn vải đã dệt vào
               vùng người Nùng.                                bụng làm căng mặt vải; rồi dùng chân phải
                   - Trồng bông, dệt, nhuộm vải: Đây là nghề   điều khiển đầu dây nối cần sợi để tách sợi
               cổ  truyền,  ghi  đậm  dấu  ấn  ở  người  Tày,   ra, đưa go và dùng go đập cho xít sợi, rồi
               Dao, Nùng nhưng ngày nay đã bị mai một          lại dùng lược ném tiếp, khi thả chân mặt

               nhiều, chỉ tồn tại ở những bản người Tày        vải chùng, cái tách sợi trượt về phía trên
               hẻo lánh và ở hầu hết người Nùng. Để có         để trở về phía ban đầu... Với bộ khung dệt
               tấm vải bông, phải thực hiện các công đoạn:     trên có thể dệt được các khổ vải từ 20 cm
               trồng bông, cán bông, se sợi, dệt, nhuộm...     đến 40 cm; dệt khổ vải nào thì dùng loại
                   Thu và cán bông: bông cỏ thu hoạch          lượt “phùm” (ném sợi) ấy. Loại phùm từ
               vào  tháng  7-8,  bông  luồi  thu  vào  tháng   200 đến 250 sợi dùng dệt khổ vải từ 20 đến
               9-10. Hái bông đến đâu bóc núm quả tới          30 cm để may áo trẻ con, khăn; loại phùm
               đó, mang về phơi 3-4 nắng cho khô kiệt          400 sợi dùng dệt khổ vải 40cm để may áo
               rồi cán bằng cái “cần phải”, tách hạt ra để     người lớn. Thông thường, đồng bào Tày,

               được bông nõn.                                  Dao,  Nùng  dệt  loại  vải  khổ  2  gang  tay,
                   “Công phải” (bật bông) làm cho bông         tương đương 40 cm. Mỗi người trung bình
               tơi xốp. Việc này khá vất vả, mỗi công chỉ      một ngày có thể dệt được 5 sải vải - đủ may
               được  khoảng  5  kg.  Những  gia  đình  có      được 1 bộ quần áo phụ nữ. Họ thường dệt
               nhiều bông phải nhờ người làm giúp. Gần         vào những tháng nông nhàn.
               đây, một số địa phương đã phát triển máy            Sau khi có vải mộc, người Tày, Nùng
               bật bông.                                       đều nhuộm chàm trước khi may cắt quần
                                                                                               1
                   Sau khi có bông tơi xốp, vê thành từng      áo.  Khi  chàm  được  thu  hoạch ,  cắt  cành
               con  rồi  dùng  “slỏa”  (sa  kéo  sợi)  để  kéo   lá ngâm vào thùng gỗ lớn; sau hai ngày



                   1. Đồng bào Tày, Nùng trồng cả hai loại chàm là chàm lá to và chàm lá nhỏ.
   712   713   714   715   716   717   718   719   720   721   722