Page 116 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 116
116 ĐỊA CHÍ TUYÊN QUANG
chỉ còn rất ít, năm 2011 phát hiện được chỉ có ở những khu rừng xa dân cư, hay
4 đàn với trên 20 cá thể ở vùng bảo tồn khu bảo tồn.
thuộc huyện Nà Hang. - Lợn rừng có tên khoa học là Susscrofa.
- Sóc gồm nhiều loại: sóc đen, sóc Lợn rừng là loài khá phổ biến ở Tuyên
lửa, sóc chuột. Chúng ăn quả, hạt của cây Quang trước những năm 60 của thế kỷ XX,
rừng như quả gắm, hạt dẻ, chuối rừng. Lợn rừng sống ở bìa rừng, rừng cây thấp,
Các loài sóc thường chạy nhảy, chuyền lau lách, rừng tre nứa, ven suối cạn, ven
trên cây rất nhanh. đầm lầy. Mỗi năm lợn rừng đẻ 2 lứa, mỗi
- Các loài cầy sống trên cây có cầy vòi lứa từ 8 - 10 con. Lợn rừng là loài ăn tạp,
mốc, cầy vòi đốm; hai loài cầy này thuộc chúng thường đào bới đất để tìm củ, rễ
bộ ăn thịt, nhưng chúng sống trên cây và cây, giun, dế, côn trùng để ăn. Vào thời kỳ
không ăn thịt mà ăn quả cây nên được gọi khô hạn, thức ăn trong rừng khan hiếm,
là cầy quả. Cầy quả kích thích không lớn, lợn rừng kéo về phá hoại nương rẫy của
chỉ nặng khoảng 4 - 5 kg. đồng bào dân tộc. Hiện nay lợn rừng chỉ
2. Các loài thú sống trên mặt đất xuất hiện nơi bìa rừng, nơi ít người qua lại
ở các huyện của tỉnh.
Nhóm thú sống trên mặt đất là nhóm - Sơn dương hay còn gọi là dê rừng,
có nhiều loài nhất, chủ yếu thuộc hai tên khoa học là Capricornis sumatraensis,
nhóm: nhóm ăn thực vật, nhóm ăn thịt. thuộc họ trâu bò (Bovidae), có con nặng tới
2.1. Nhóm thú ăn thực vật 150 kg, toàn thân mầu đen, lông cứng, dài
Chủ yếu là các loài thú ăn cây cỏ, lá cây tạo thành bờm từ trán xuống vai. Con đực
rừng. Đáng kể đến là các loài nai, hoãng, và con cái đều có cặp sừng ngắn (10 - 12 cm),
sơn dương. cong về phía sau, sừng không phân nhánh,
- Nai có tên khoa học là Cervus không thay hàng năm như nai, hoẵng.
unicolor, hoẵng còn có tên là con mang Sơn dương thích nghi với vùng núi đá
hay tu quang (Muntiacus muntjak), thuộc
họ nai (Cervidae), bộ móng guốc chẵn hoặc núi đất lẫn đá xen kẽ. Sơn dương có
(Artiodactyla). bộ chân khỏe, chúng đi lại dễ dàng trên
Nai có thân hình to lớn, có con nặng núi đá dốc. Khi gặp kẻ thù chúng chạy rất
tới 150 kg, lông thưa mầu xám hay xám nhanh, có thể nhảy từ mỏm đá này sang
đen. Hoẵng có thân hình nhỏ hơn nai, mỏm đá khác. Thức ăn của sơn dương là lá
trọng lượng khoảng 30 kg, lông mịn mầu cây, vỏ cây, rêu, địa y bám trên vách núi đá.
vàng óng. Nai và hoẵng chỉ có sừng ở Mỗi năm sơn dương sinh sản một lần, mỗi
con đực, con cái không có sừng. Sừng nai lứa một con. Mùa sinh sản của sơn dương
có kích thước lớn, gồm 3-4 nhánh, sừng thường vào tháng 3 đến tháng 4 hàng năm.
hoẵng mảnh dẻ có 2 nhánh. Nai và hoẵng Trước đây ở các khu vực núi đá thuộc
mỗi năm thay sừng 1 lần vào cuối xuân các huyện của Tuyên Quang có nhiều
hay đầu hạ. Sừng mới mọc rất mềm, gọi sơn dương sinh sống. Hiện nay số lượng
là nhung. Nhung nai, hoẵng rất giầu chất giảm đáng kể, chỉ thấy chúng ở những
dinh dưỡng, được dùng làm thuốc bồi bổ vùng núi đá xa khu dân cư hoặc trong các
sức khỏe. khu bảo tồn.
Trước đây nai, hoẵng có nhiều ở hầu 2.2. Nhóm thú ăn thịt
hết các huyện của Tuyên Quang. Nay rừng - Họ mèo (Felidae) có các loài: hổ (Panthera
tự nhiên bị thu hẹp nên số lượng còn rất ít, tigri), báo gấm (Pardofelis nebulosa), báo