Page 70 - Lịch sử đảng bộ Tuyên Quang 1945 - 1970
P. 70

những thành quả quan trọng: phong trào bình dân học vụ được mở rộng, ngành
                     giáo dục phổ thông được cải tiến, diện mù chữ ngày càng bị thu hẹp. Phong trào
                     xóa nạn mù chữ không chỉ lan rộng ở vùng thấp, trong đồng bào Kinh, Tày mà
                     còn đi sâu vào vùng cao, vùng xa, trong các dân tộc ít người.
                            Cuối năm 1949 toàn tỉnh đã có 72 trường tiểu học với 94 giáo viên, 3.883
                     học sinh. Từ tháng 1 đến tháng 10-1949 đã xóa mù chữ cho 3.378 người và có
                     14.065 người đang theo học bình dân học vụ, thanh toán nạn mù chữ ở 50 thôn
                     và 3 xã Ỷ La (Yên Sơn), Bình Lục (Yên Bình), Tam Đa (Sơn Dương); đào tạo
                     được 61 giáo viên bình dân học vị, 427 cán bộ xóa mù chữ; mở 18 lớp xóa mù
                     chữ cho đồng bào Dao thuộc Na Hang, Sơn Dương, Hàm Yên. ngoài ra tỉnh còn
                     xây dựng được một trường trung học với 126 học sinh. Năm 1950  toàn tỉnh đã
                     có 41.796 người được xóa mù chữ. Huyện Sơn Dương là huyện đầu tiên trong
                     toàn quốc đã thanh toán xong nạn mù chữ và được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi
                     thư khen ngợi. Thực tế công tác giáo dục trong thời gian này cho ta bài học kinh
                     nghiệm là muốn thành công trong công tác phát triển giáo dục, ngoài việc làm
                     cho nhân dân thấy rõ ích lợi và quyền được học, có sự đầu tư thỏa đáng về mọi
                     mặt, chúng ta còn cần phải có cách thức tổ chức các trường, lớp và chương trình
                     học tập phù hợp với từng địa bàn, từng dân tộc.
                            Đánh giá chung về công tác văn hóa, giáo dục thời kỳ này, Hội nghị đại
                     biểu Đảng toàn tỉnh lần thứ tư (6-1949) đã chỉ rõ: Tuy còn một số nhược điểm
                     là nhà trường phân phối không đều, không sát với thực tế, thiếu giáo viên, sách
                     vở, nhất là sách giáo khoa và tài liệu bằng tiếng địa phương... nhưng phải thấy
                     rỗ rằng phong trào học tập của quần chúng rất cao: “Người nào cũng muốn học,
                     cả đến đồng bào (dân tộc ít người) cũng đi học, các sách vở chỉ lưu hành ở
                     thành thị trước đây đã thâm nhập cả vào thôn quê, báo chí xuất bản ngày một
                                                                                             1
                     nhiều nhưng vẫn chưa dấp ứng kịp với sự đòi hỏi của nhân dân” .
                            Cùng với công tác củng cố chính trị, phát triển kinh tế, kết quả đạt được
                     trong lĩnh vực văn hóa xã hội thời gian này đã góp phần tạo nên những chuyển
                     biến  sâu  sắc  tình  hình  chung  của  tỉnh, tạo  điều kiện  cho  chúng  ta  đóng  góp
                     nhiều hơn cho công tác kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.
                            Hơn 4 năm cùng toàn quốc kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát
                     huy truyền thống cách mạng của quê hương, nhân dân Tuyên Quang đã làm nên
                     những kỳ tích: đánh thắng 2 cuộc tấn công lớn của địch, bảo vệ an toàn Bác Hồ
                     và các cơ quan Trung ương đầu não kháng chiến, giữ  vững vùng căn cứ địa
                     kháng chiến của cả nước. Đánh giặc đi đôi với xây dựng cuộc sống mới, tỉnh đã
                     duy trì, phát triển tốt các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, qua đó từng bước
                     tăng cường thêm sức mạnh của Đảng, của cách mạng, đóng góp nhiều công sức
                     cho kháng chiến, đưa địa phương đi lên, hòa nhịp với cả nước chuẩn bị đầy đủ
                     các điều kiện để đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân
                     tộc chuyển qua giai đoạn tổng phản công.



                     1  . Trích báo cáo của đồng chí Trần Thanh Quang, Bí thư Tỉnh ủy tại Hội nghị đại biểu toàn tỉnh lần thứ 4 (6-
                     1949). Tài liệu lưu trữ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tuyên Quang.


                                                                 70
   65   66   67   68   69   70   71   72   73   74   75