Page 659 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 659

Phêìn thûá tû: KINH TÏË - XAÄ HÖÅI  659


                   - Ong: Từ lâu, nghề nuôi ong mật đã             “Hoả ngư” là tên loài cá nhỏ, vẩy xanh
               khá phát triển vì Tuyên Quang có nhiều          mà da đỏ. Con lớn dài tới 6, 7 tấc. Hằng
               rừng với các loài cây thích hợp cho việc        năm, vào tháng 11, 12 chúng xuất hiện ở
               nuôi ong. Những năm gần đây, phong trào         thác nước. Các tháng khác thì không thấy;
               trồng  cây  ăn  quả  phát  triển  mạnh,  diện   thổ dân bắt ăn, còn người chuyên đánh cá
               tích trồng nhãn vải khá lớn nên khá thuận       thì lại kiêng tránh. Loài cá này sinh ra ở xã

               lợi cho việc phát triển đàn ong. Ong được       Phúc Khánh huyện Lục Yên .
                                                                                            4
               nuôi trong các thùng gỗ có kích thước cao           Lớn  như  “con  giao”   con  lươn.  Loài
                                                                                         5
               50-60 cm, rộng khoảng 50 cm. Mỗi thùng          “giao” không có vẩy, da xanh, con lớn có
               có 5-8 cầu ong được đóng bằng gỗ, thành         thể dài 3, 4 thước. Còn loài lươn lại có hai
               khuôn cỡ 25x40cm. Từ tháng 2 đến tháng 5        loại, loại có hoa, thịt màu vàng, và loại thịt
               là mùa hoa nở nhiều là thời điểm chính để       màu trắng. Loại màu vàng ăn ngon hơn.
               thu mật. Sản lượng mật ong năm 2010 đạt             Cá “anh vũ” mùa đông ra khỏi “huyệt”
               60 nghìn lít. Mật ong Tuyên Quang thuộc         (Cá anh vũ mình tròn, vảy đen, gần giống

               loại tốt vì ong chủ yếu lấy mật tự nhiên,       cá  trắm  đen,  nhưng  mõm  cá  cong,  môi
               mật hoa rừng.                                   trên dài, có một cục thịt, môi dưới ngắn;

               IV- THủY SẢN                                    thịt ăn rất ngon. Giống cá này sản sinh ở
                                                               xã Thanh Tương, châu Chiêm Hóa, hay ở
                   Tuyên Quang có nguồn lợi thuỷ sản tự        xã An Phú huyện Vĩnh Điện, trong hang
               nhiên khá phong phú về chủng loại, trong        dưới  núi  Xích  Thạch.  Hằng  năm,  đến
               đó có những loài có giá trị cao như cá anh      tháng 9 hết lụt thì nó ra sông; mùa xuân,
               vũ, cá chiên, cá quả, cá chép, ba ba...; có     nước lên, nó lại vào hang).
               nhiều loài có khả năng sinh trưởng tốt như          Giống  tôm  núi  mùa  xuân  bơi  ngoài

               cá trắm, cá mè...                               suối  (loại  tôm  này  giống  như  tôm  sông,
                   Trong bài phú về tỉnh Tuyên Quang ,         nhưng nhỏ con hơn và vị nhạt; sinh ở xã
                                                         1
               Đặng Xuân Bảng  đã viết về các loại côn         An Phú, trong suối trên núi Xích Thạch; có
                                 2
               trùng và cá có ở Tuyên Quang như sau:           rất nhiều, người ta gọi là “mỏ tôm”).
                   “Loại nhỏ như con “hưu”, con “hỏa”.             Cá trê, cá chép vượt thác, rồi cả giống

               Con hưu hình dạng giống con ếch, nhưng          tê tê. Thuồng luồng quẫy đuôi ở vực sâu (tê
               mình dài, da trơn. Giống này sinh ở trong       tê còn có tên gọi là Xuyên Sơn giáp. Giao
               núi;  hằng  năm  cứ  đến  tháng  11,  12,  thì   long [thuồng luồng] hình giống con lươn
               chúng bơi theo khe suối mà ra hàng nghìn        mà thân dài 2, 3 mét, thân nhọn, ở đuôi có
               hàng vạn con. Người ta bắt để ăn. Khi nào       chiếc vẩy mọc ngược. Khi thấy người, nó

               giống này hàng đàn kéo ra, thì hai ba ngày      lấy thân quấn, rồi dùng đuôi chọc vào rốn
               sau ắt trời trở rét .                           cho chảy máu đến chết)”.
                                3


                   1. Đặng Xuân Bảng: Tuyên Quang tỉnh phú, viết năm Tự Đức thứ 14 (1860). Bản chữ Hán lưu tại Viện
               Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A 964. Bản dịch của Ngô Thế Long, lưu tại Trung tâm UNESCO Thông
               tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam.
                   2. Tri phủ Yên Bình.
                   3. Theo mô tả có lẽ đây là loài “ếch giun” ở Việt Nam.
                   4. Có lẽ đây là loài “cá cóc Tam Đảo”.
                   5. Giao có thể là thuồng luồng (trăn nước).
   654   655   656   657   658   659   660   661   662   663   664